Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Tập 496
Chủ giảng: Tịnh Không Pháp Sư
Chuyển ngữ: Võ Mai Hoa
Biên tập: Minh Tâm
Thời gian: 14.07.2011
Địa điểm: Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội – Hongkong
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi xuống. Mời quý vị xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 618, bắt đầu xem từ hàng thứ tư.
“Cầu đạo hoà chánh, bất ngộ khuynh tà. Hoà giả cụ điệu, hài, ôn, thuận, bình, mục, hợp, đồng, lạc, tương ứng”. Có nhiều ý nghĩa, thực tế có nhiều ý nghĩa như vậy, xin nêu một vài ví dụ, có ẩn chứa nhiều nghĩa trong đó.
“Chánh giả, tòng nhất, chỉ ư nhất dã. Cụ thị, trung, thường, chỉ, hành vô khuynh tà, phương trực bất khúc chư nghĩa”. Chữ chánh có nhiều nghĩa như vậy. Cầu đạo phải hòa chánh, bất ngộ khuynh tà, ở đây đều nói với chúng ta về tâm thái của việc học tập, tâm thái chuẩn xác thì mới có thể đạt được chánh đạo.
Hành là hành vi, “hành vô khuynh tà, phương trực bất khúc”. Tất cả những điều trên đều phải hội tụ đầy đủ. Hoà về mặt tâm tư mà nói, năng điều, năng hài, năng ôn, năng thuận. Cái chánh này là năng nhất, nhất tâm chánh niệm, hai niệm, ba niệm thì ắt sẽ loạn, mà loạn thì bất chánh. Vì thế nó có chánh, có nhất, có trung, có thường, thường là vĩnh viễn bất biến. Chỉ là dừng ở một điểm nào đó. Trong kinh đức Phật thường dạy chúng ta rằng, “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”, cũng có nghĩa là mọi vấn đề đều có thể được giải quyết, chỉ cần tâm dừng ở một chỗ. Nhất không chỉ định một chỗ nào, nghĩa là nhậm nhất, nhậm nhất là trạng thái gì? Chắc chắn là trạng thái thiền định, một thì sẽ định, hai thì sẽ bất định. Vì thế trong thiền tông, biện pháp có vô lượng vô biên, đều khiến cho con người đem tâm thu lại, thu về một nơi, thì định công sẽ xuất hiện, tác dụng của định chính là trí tuệ. Chúng ta biết định đến mức nào là tốt nhất không? Chúng ta thông qua việc học Kinh đại thừa, sự hiểu biết về Kinh Vô Lượng Thọ, mới gọi là biết đúng nghĩa, chỉ dừng lại ở chỗ Phật A Di Đà mới thù thắng không gì sánh bằng. Trong tâm có Phật, ngoài Phật ra, không có gì cả, nhất định là hoà chính, bất ngộ khuynh tà. Cầu đạo là cầu minh tâm kiến tính, niệm Phật chắc chắn có thể minh tâm kiến tính.
Tiếp sau đây xin nói về “cực lạc thánh chúng”, người ở đó, tâm trạng, tính tình của họ, “hoà bình trung chánh, dĩ cầu vô thượng chi đạo, cố bất vi khuynh tà sở ngộ”. Khuynh tà sẽ đựơc giải thích dưới đây. Khuynh có nghĩa là tà, là cong, tắc là khuynh phục. Tà là tà ác, tà ngoại. “Bỉ độ, thánh chúng bất vi khuynh tà sở ngộ giả”. Tà môn ngoại đạo rất nhiều, nhất là trong thế giới của chúng ta ngày nay, muôn hình muôn vẻ, do vậy người cầu đạo rất dễ đi theo con đường lệch lạc, mà bản thân họ không biết, xem tà là chánh, đến khi giác ngộ ra thì đã quá muộn. Đối với việc cầu đạo, phải hết sức thận trọng, phải có sự chuẩn bị đầy đủ từ trước. Trước hết phải quan sát, mà quan sát phải khách quan, không có thành kiến, mới có thể đủ khả năng phân biệt chánh tà phải trái; ngược lại nếu dùng tình cảm, thành kiến, thì phán đoán sẽ sai lầm. Nên đọc nhiều sách Thánh hiền, lắng nghe sự dạy bảo của Thánh hiền, sẽ có sự hỗ trợ và mang đến cho chúng ta nhiều điều tốt đẹp. Nếu gặp đựơc người thầy giỏi, người Thầy đúng như cổ nhân thường nói “khả ngộ bất khả cầu”, đây là cảm ứng, tâm chúng ta chánh, hành vi của chúng ta chánh. Tiêu chí rất đơn giản để tâm chánh, hành chánh, không màng danh lợi cho bản thân đó là chánh; xen lẫn danh lợi của bản thân vào trong đó thì không dễ gì chánh đựơc, cũng có nghĩa là quí vị rất dễ nhìn nhận sai trái. Buông bỏ danh lợi, tâm ắt sẽ đoan chánh, tâm là nhất, đây là điều quan trọng nhất, chúng ta nên biết điều này.
Họ sở dĩ không bị tà ác, tà ngoại lừa gạt, thay đổi, quả là do vì “tuỳ kinh ước lệnh, bất cảm sa điệt, nhược ư thằng mặc”. Nhược ư thằng mạc là người thật thà, những người này rất trung thực, biết nghe lời, thật sự thực hành, phàm là người hội tụ những ưu điểm này, hầu như không có ai không thành công. Thế giới cực lạc phương tây đều hội tụ, ai ai cũng thật thà, nghe lời, thực hành. Nghe lời ai? Nghe lời Phật.
“Ước giả ước thúc, lệnh giả mệnh lệnh”. Những người này nghe theo lời dạy của kinh Phật, để chế ước hành vi của bản thân, đây chính là trì giới, giới hành thanh tịnh. Sa là ngã, là vấp ngã. Thằng mặc là quy ước, hai thứ này ngày xưa là dụng cụ của người thợ mộc, gỗ muốn cưa thẳng, phải dùng sợi dây mực đen, lấy đinh đóng vào một đầu gỗ, rồi buộc dây mực đen vào kéo thẳng thành một đường đen, sau đó cưa theo đường đen đó, gọi là thằng mặc. Đó là cách của thợ mộc, lấy cách này để làm so sánh. “Dĩ thằng mặc đàn họa chi hắc tuyến, tượng nhân y tuyến thí dĩ phủ cự”. Hoặc là dùng búa, hoặc là dùng cưa, không dám sai sót đến từng li, nếu có một chút sai sót, hai miếng gỗ được cưa sẽ không thể ăn khớp nhau, nên bắt buộc phải tuân thủ cái chuẩn này. Các vị Bồ tát của thế giới cực lạc, họ đối với lời dạy của Phật, giáo lý kinh Phật, “nhược tượng nhân chi vu thằng mặc, y tuyến thi công, bất cảm sảo hữu vi thất. Cố khả miễn vu sa điệt, bất vi khuynh tà sở ngộ”. Giống như sự dụng tâm của thợ mộc, dùng cái này để so sánh với Bồ tát trong thế giới cực lạc, đối với sự dạy bảo của đức Phật Di Đà, và mười phương chư Phật. Đến thế giới cực lạc học tập, thì phạm vi lại càng rộng, chúng ta không thể tưởng tượng nổi, họ có thể đồng thời phân vô lượng vô biên thân. Bản thân bất động tại giảng đường của đức Phật A Di Đà, có thể phân vô lượng vô biên thân, đồng thời đến thế giới vô lượng vô biên thân cận với Chư Phật Như Lai. Cúng dường là tu phước, quý vị xem họ tu được bao nhiêu phước báo! Nghe Kinh là tu tuệ, quả thực là phứơc tuệ song tu, thù thắng không gì sánh bằng. Đây là lý do vì sao quý vị đi đến thế giới cực lạc, bảo đảm quý vị một đời thành Phật, quý vị quyết không lùi bước, đạo lý là ở đây. Những thứ này đều là đức Thế Tôn khích lệ chúng ta, dạy bảo chúng ta, nơi này nhất định phải đi. Nếu quý vị không hiểu nó, có sự hoài nghi, thì không thể quyết tâm được; ngược lại nếu quý vị minh tường, hiểu rõ về nó, thì sẽ quyết tâm đến cùng, đời này quyết tâm đi đến thế giới cực lạc, quyết tâm thân cận Phật A Di Đà.