PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
TỊNH KHÔNG PHÁP SƯ CHỦ GIẢNG
TẠI CƯ SĨ LÂM SINGAPORE
(Tháng 11 năm 1994)
Chuyển ngữ: Cư Sĩ Thanh Trí
Biên tập: Cư sĩ Thiện Đức
TẬP 26
BIÊN ĐỊA NGHI THÀNH ĐỆ TỨ THẬP
PHẨM BỐN MƯƠI: BIÊN ĐỊA, NGHI THÀNH
“Phật cáo Từ Thị: “Nhược hữu chúng sanh, dĩ nghi hoặc tâm tu chư công đức, nguyện sanh bỉ quốc. Bất liễu Phật Trí, Bất Tư Nghị Trí, Bất Khả Xưng Trí, Đại Thừa Quảng Trí, Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng Trí. Ư thử chư trí, nghi hoặc bất tín, do tín tội phước, tu tập thiện bổn, nguyện sanh kỳ quốc””.
(Đức Phật bảo Ngài Từ Thị: “Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc mà tu các công đức, nguyện sanh về Cực Lạc, không rõ Phật Trí, Bất Tư Nghị Trí, Bất Khả Xứng Trí, Đại Thừa Quảng Trí, Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng Trí. Đối với các trí này nghi ngờ không tin, nhưng tin tội phước mà tu tập gốc lành, nguyện sanh về Cực Lạc”).
Đây là loại thứ nhất, những chỗ này chúng ta phải lưu ý. Trong đoạn khai thị này Thế Tôn chủ yếu là thức tỉnh chúng ta, vãng sanh tốt nhất đừng nên sanh vào biên địa. Sanh vào biên địa, thấy Phật nghe pháp phải trễ mất năm trăm năm, thời gian dài như thế đó. Tuy ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, trong thọ mạng của vô lượng thọ, năm trăm tuổi đích thực là vô cùng ngắn tạm. Tuy nhiên, chúng ta thử nghĩ, nếu ở thế gian này phải rớt lại phía sau năm trăm năm, chúng ta nhất định phải biết có rất nhiều đồng tu ở phía sau sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc vượt qua chúng ta rất nhiều. Chúng ta tuy sanh Tây Phương nhưng rớt ở phía sau họ, là tình trạng này. Phật ở chỗ này rất từ bi mà thức tỉnh chúng ta. Trong trường hợp này là không thể liễu giải trí huệ không thể nghĩ bàn của Phật mà khởi nghi hoặc, “nghi hoặc tâm”. Tuy là nghi hoặc, họ vẫn “tu chư công đức, nguyện sanh bỉ quốc”. Hai điều này rất quan trọng, tuy họ có nghi hoặc, tại sao lại vãng sanh? Có thể thấy rằng họ tu hành đích thật không có rớt sau người ta. “Tu chư công đức” tối quan trọng là Tín, Nguyện, Trì Danh, đây là công đức đấy! Cho nên họ được sanh Tây Phương Tịnh Độ. Tại sao họ không thể nhập phẩm. Chữ “phẩm” này tức là “chín phẩm”. Tại vì họ “bất liễu Phật Trí”. “Phật Trí” nào vậy? Tiếp theo Phật nói bốn thứ trí, “Phật Trí” là nói chung.
“Bất Tư Nghị Trí”, Phật có trí huệ không thể nghĩ bàn. Cổ Đại Đức đem đoạn kinh văn này phối vào trong “tứ trí” mà thuyết minh thì chúng ta dễ hiểu được. Trong Pháp Tướng Duy Thức nói tứ trí này là: Thành Sở Tác Trí, Diệu Quán Sát Trí, Bình Đẳng Tánh Trí và Đại Viên Kính Trí. Chúng ta cũng gọi nó là “tứ trí Bồ-đề”, Bồ-đề nghĩa là giác ngộ. “Tứ trí Bồ-đề” là đối với mê tình phàm phu mà nói. Bởi vì phàm phu đã mê mất tự tánh, đem tự tánh biến thành “tám thức”, tám thức này không phải là giác ngộ, tám thức là do mê hoặc mà có, còn giác ngộ thì đem tám thức chuyển đổi thành bốn trí. Cho nên Giáo Hạ thì nói tu hành quí tại “chuyển thức thành trí”. Câu nói này đích thực nói không sai. Thành tựu của việc tu hành là gì? Là chuyển thức thành trí, chuyển “bát thức” thành “tứ trí”. Tuy nhiên phải thực sự biết chuyển, đích thực rất không dễ dàng!
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng-nghiêm rất nổi tiếng trong giới Phật giáo Trung Quốc, hầu như không ai không biết đến bộ kinh điển này. Từ xưa đến nay, chú giải Kinh Lăng-nghiêm có trên một trăm loại, có thể thấy sự yêu chuộng của mọi người đối với bộ kinh này, có nhiều người chú giải như vậy. Trong đó, phần chú giải thuộc hạng quyền uy, tức là mọi người đều công nhận chú giải hay, ít nhất có đến mười mấy loại. Vào cuối đời nhà Minh có Giao Quang Đại Sư, Ngài cùng một thời đại với Liên Trì Đại Sư. Giao Quang Đại Sư cũng là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nơi phần chú giải Kinh Lăng-nghiêm của Ngài gọi là Chánh Mạch Sớ, trong phần tựa Ngài viết về nhân duyên Ngài chú giải kinh. Lúc Ngài sắp vãng sanh, cũng tức là thọ mạng đã đến, A-di-đà Phật đến tiếp dẫn, Ngài hốt nhiên chợt nghĩ, Kinh Lăng-nghiêm từ xưa đến nay tuy có rất nhiều chú giải nhưng vẫn chưa nói rõ ràng ý của Phật, đều chỉ ở đó suy đoán mò mẫm. Ngài muốn phát tâm làm phần chú giải cho Kinh Lăng-nghiêm. A-di-đà Phật đến tiếp dẫn Ngài, Ngài hướng về A-di-đà Phật xin nghỉ phép, thưa rằng: “Cho con chú giải xong kinh này rồi mới vãng sanh”. A-di-đà Phật gật đầu đồng ý rồi đi mất, bệnh của Ngài cũng lành hẳn. Sau khi lành bệnh, Ngài làm chú giải của Kinh Lăng-nghiêm. Phần chú giải của Ngài khác với phần chú giải xưa, kiến giải đích thực không giống nhau. Chú giải xưa phần nhiều là phối hợp tam chỉ, tam quán của Thiên Thai để giải thích Lăng-nghiêm. Còn kiến giải của Giao Quang Đại Sư là đã thoát ly Thiên Thai, hoàn toàn theo ý thú trong kinh điển đã nói để giải kinh, giải thích về xa-ma-tha, tam-ma, thiền-na. Người xưa đã đem ba thứ này phối hợp với Tam Chỉ Tam Quán của tông Thiên Thai. Trong đó cái quan trọng nhất là Ngài đề xướng “xả thức dụng căn”. Bởi vì chú giải xưa đều không rời khỏi “bát thức”, cách nhìn của Ngài về xa-ma-tha, tam-ma, thiền-na trong Lăng-nghiêm là lìa khỏi tám thức, nhất định không dùng tám thức, 51 tâm sở. Cách nói này thật là cao minh, đích thực khác với cách nhìn của Cổ Đức.