PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 53
Kinh văn: “Khứ lai hiện tại, Phật Phật tương niệm, vi niệm quá khứ, vị lai chư Phật da, vi niệm hiện tại tha phương chư Phật da, hà cố oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu nãi nhĩ, nguyện vi tuyên thuyết”.
Đoạn Kinh văn này là tiếp theo đoạn trước. A Nan tôn giả ở trong pháp hội thay chúng ta thỉnh pháp. Ngôn từ thỉnh pháp trước tiên là xưng tán đối với Thế Tôn. Trong xưng tán, chúng ta cũng học được rất nhiều. Hôm nay chúng ta đọc được đoạn văn này, đoạn văn này là tôn giả A Nan trong lòng chính mình đang phán đoán, bởi vì hình tướng của Thích Ca Mâu Ni Phật quá hi hữu. A Nan là thị giả của Thế Tôn, thường hay ở bên cạnh đức Phật. Theo kinh nghiệm của Ngài, từ trước đến giờ chưa từng thấy qua Thích Ca Mâu Ni Phật có loại quang sắc thù thắng đặc biệt như hôm nay (người thông thường chúng ta gọi là phong thái), cho nên trong lời xưng tán của Ngài nói: “Thế Tôn kim nhật, nhập đại tịch định, trụ kỳ đặc pháp, trụ chư Phật sở, trụ đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”.
Cái trụ này là trong tâm an trụ, cũng chính là chúng ta thường hay nói tâm tư ý niệm ở trong lòng. Tâm niệm này của Ngài thù thắng, ý niệm này quá tốt, cho nên hiện ra cái tướng rất đặc thù. Đó là người thế gian chúng ta thường nói tướng tùy tâm chuyển, cho nên tướng sẽ thay đổi. Vì sao thay đổi? Quyết định không phải đi làm đẹp, đi hóa trang, cái đó thì không thể thay đổi được, sự biến đổi đó còn phải khởi tác dụng phụ, còn mang đến rất nhiều phiền não. Tướng tùy tâm chuyển là tâm của bạn đổi rồi thì tướng liền đổi, không những tướng thay đổi mà thể chất cũng thay đổi.
Chúng ta thường hay nghe nói có một số đặc dị công năng, đó là thật không phải là giả, tôi đã gặp ở nước Mỹ. Họ có năng lực thấy được vận khí trên con người. Chúng ta gọi là khí công, gọi là khí, trong Phật pháp gọi là quang, hiện tại khoa học gia gọi là năng lượng, trên thực tế đều là nói một sự việc. Có thể thấy được ánh sáng trên thân mình hoặc là khí lực tuyệt nhiên không phải là việc khó làm, chỉ cần có lòng nhẫn nại, đại khái có công phu một hai tháng, bạn liền có loại năng lực này. Loại năng lực này mạnh hơn, bạn cũng có thể thấy được người khác, ánh sáng trên thân của người khác phát ra, hoặc là thấy được khí lực của người khác. Phạm vi này lớn nhỏ không như nhau, màu sắc không như nhau, hoàn toàn từ trong tâm niệm của bạn phát ra. Thực tế, nguyên lý này chính là chấn động của ý niệm sanh ra hiện tượng của sóng động. Thông thường người tâm ý thô thiển thì không thấy được, người hơi tinh tế một chút, tâm thanh tịnh một chút thì không khó phát hiện.
Tôn giả A Nan xem thấy quang sắc hôm nay của Thích Ca Mâu Ni Phật quá kỳ diệu, quá thù thắng, cho nên nói ra mấy câu nói trước. Mấy câu nói này lần trước đã giải thích qua với các vị. Hôm nay tiến thêm một bước nữa là Ngài nghĩ đến cái ý niệm tư tưởng này đạt đến thù thắng nhất, viên mãn nhất không thể nào vượt qua được niệm Phật, cho nên trong lòng ông nghĩ Thế Tôn hôm nay, phía trước đã nói qua “oai quang hách dịch, như dung kim tụ”, có phải là Phật đang niệm Phật? Nếu không thì làm sao có thể hiện ra tướng lạ đến như vậy? Từ hiện tướng này có thể thấy được tư tưởng của một người, cho nên sóng động của tư tưởng có thể thấy được. Cái tướng tốt nhất định là sóng động của tư tưởng tốt. Tốt đến tột đỉnh không gì hơn niệm Phật. Cho nên các vị thường hay đến niệm Phật đường để niệm Phật, người ta hỏi các vị niệm Phật có gì tốt? Các vị phải biểu hiện cho người khác xem. Thích Ca Mâu Ni Phật niệm Phật “oai quang hách dịch, như dung kim tụ, hựu như minh cảnh, ảnh sướng biểu lý”, còn bạn ở trong niệm Phật đường này niệm được như thế nào? Nếu như bạn ở trong niệm Phật đường niệm được dung nhan phát sáng, quang sắc hơn người, làm cho người vừa thấy bạn liền sanh tâm hoan hỉ, công phu niệm Phật của bạn biểu hiện ở bên ngoài, càng niệm càng trẻ trung, càng niệm thân thể càng khỏe mạnh. Vốn dĩ trên thân thể có rất nhiều bệnh tật, việc niệm này làm cho bất cứ bệnh gì cũng đều không có. Lời nói này là thật, không phải là giả.
Bệnh của bạn từ đâu mà ra? Bệnh từ nơi vọng tưởng mà ra. Phật ở trên Kinh nói với chúng ta, tham-sân-si là ba độc, dùng lời hiện đại mà nói thì gọi là bệnh độc. Trong lòng có bệnh độc, hoàn cảnh bên ngoài trược ác. Trên Kinh Phật nói, trược là ô nhiễm, hoàn cảnh bên ngoài ô nhiễm. Ác chính là ý niệm không tốt, khởi tâm động niệm không phải thiện niệm. Ngoài có trược ác chính là có ô nhiễm, bên trong có ba độc, trong ngoài giao cảm thì bạn làm sao mà không bị bệnh? Mức độ phát bệnh của bạn cùng với mức độ giao cảm trong ngoài của bạn quyết định thành ra vấn đề. Nếu như bạn hiểu rõ ra vấn đề này, ở bên trong tẩy sạch hết bệnh độc, trừ bỏ hết tham-sân-si. Trong tâm trừ hết tham-sân-si rồi, xin nói với các vị, hoàn cảnh bên ngoài lập tức liền thay đổi. Cho nên chúng ta cần phải hiểu rõ, phải khẳng định, tâm địa thanh tịnh quang minh thì chúng ta không bị ô nhiễm, sẽ không tiếp nhận ô nhiễm, tuyệt đối sẽ không gặp phải những độc hại này. Nhà Phật dạy người phải sanh tâm đại từ bi, tâm đại từ bi có thể giải độc, có thể hóa giải hết thảy tất cả độc tố. Trong đây có đạo lý rất sâu. Cho nên, chân thật niệm Phật thì công phu có lực. Ở trong giảng đường đã nói qua rất nhiều lần, niệm Phật quan trọng nhất là tâm và miệng phải tương ưng. Cho nên các vị thấy chữ “Niệm” này, văn tự của Trung Quốc, bất kỳ một quốc gia dân tộc nào trên toàn thế giới cũng đều không có. Văn tự Trung Quốc là một loại chữ phù hiệu. Lão tổ tông chúng ta thông minh tuyệt đỉnh, đối với con cháu đời sau thương yêu đến cùng tột, muốn làm thế nào đem trí tuệ của họ, kinh nghiệm của họ truyền lại cho con cháu đời sau, nên phải nghĩ ra một công cụ để truyền đạt. Công cụ này chính là văn tự. Lại đặc biệt phát minh ra một công cụ hi hữu, đó là “Văn Ngôn Văn”. Những đại đức xưa nay biết rằng ngôn ngữ sẽ tùy theo thời đại mà thay đổi, nếu như ngữ và văn là như nhau, thì sau khi thời đại thay đổi, loại văn tự này sẽ không có người xem hiểu được. Thế giới phương tây phạm phải cái lỗi này, văn La Linh của Âu châu hiện tại không có người xem hiểu. Phạn văn của Ấn Độ hiện tại cũng không có người xem hiểu. Lão tổ tông chúng ta thông minh, biết được tình hình này, liền phát minh ra Văn Ngôn Văn, chính là Văn và Ngữ phân khai. Ngôn ngữ sẽ thay đổi, Văn thì vĩnh viễn không thay đổi. Khổng Lão Phu Tử cách chúng ta hơn 2.500 năm, ngày nay chúng ta đọc “Luận Ngữ” vẫn y như là mặt đối mặt nói chuyện với Khổng Lão Phu Tử vậy, chúng ta có thể xem hiểu được Ngài, có thể lý giải ý nghĩa của Ngài, đó chính là chỗ tốt của Ngữ cùng Văn phân ra. Chỗ này không thể tìm được ở bất cứ dân tộc quốc gia nào trên toàn thế giới. Chúng ta mới thể hội được tổ tiên yêu thương đến thế nào, quan tâm đến thế nào đối với hậu thế. Chân thật có trí tuệ.