Trì giới là gốc
Tịnh độ là nơi quay về
Quán tâm là trọng yếu
Bạn lành là chốn nương tựa
SA-DI THẬP GIỚI OAI NGHI LỤC YẾU
Tập 36
Chủ giảng: Pháp sư Định Hoằng
Thời gian: 28/12/2016
Địa điểm: Chùa Giác Nguyên, Thành phố Sán Vĩ
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Kính chào chư vị đại đức tỳ-kheo, chư vị sa-di, cư sĩ và các bậc thiện tri thức đang xem trực tiếp tôn kính, chúc mọi người buổi chiều tốt lành! Mời để tay xuống.
Mời mở sách đến môn oai nghi thứ chín:
“Thứ chín: Vào tự viện.”
Ở đây nói vào tự viện, ở Ấn Độ gọi “tự” là “tăng-già-lam-ma”, dịch sang tiếng Hoa nghĩa là “chúng viên”. “Chúng” chính là đại chúng tăng, khu vườn mà đại chúng tăng ở thì gọi là tự, tăng-già-lam-ma.
Theo lịch sử của người Trung Quốc ghi chép thì vào ngày 8 tháng 4 năm Giáp Dần, Chu Chiêu Vương năm thứ 24, bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật của chúng ta ra đời. Ở đất Trung Hoa chúng ta liền nhìn thấy “ánh sáng đỏ xuyên qua mặt trời”, tức là ánh sáng màu đỏ xuyên qua mặt trời, “nước sông Giang dâng cao”, nước sông Giang đều dâng lên. Do đó Chu Chiêu Vương liền hỏi quần thần rằng: Hiện tượng này là chuyện gì vậy? Có một vị quan Thái sử tên là Tô Do liền bẩm tấu rằng: “Phương Tây có bậc thánh nhân ra đời, sau 1.000 năm nữa pháp của ngài sẽ được truyền đến đây.” Những quan viên học giả thời xưa cũng thật sự rất tài giỏi, họ có thể thông qua những tướng sao, những hiện tượng tự nhiên này mà dự đoán được, giống như bốc quẻ vậy, tự nhiên nhìn thấy cái tướng này, bèn lấy tướng ấy để bốc quẻ, lập tức có thể dự đoán được. Ông nói phương Tây có bậc thánh ra đời, sau 1.000 năm nữa Phật pháp sẽ lưu truyền đến Đông độ chúng ta. Do đó, Chu Chiêu Vương liền hạ lệnh khắc sự việc này lên đá, ghi chép lại, sau đó chôn nó trước Thiên Từ ở ngoại ô phía nam.
Sau đó đến ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Thân, Chu Mục Vương năm thứ 53, vừa rồi nói năm Giáp Dần - Chu Chiêu Vương năm thứ 24, tức là năm 1027 trước công nguyên, đến Chu Mục Vương năm thứ 53, tức là năm 947 trước công nguyên, Phật thị hiện diệt độ. Lúc này bão gió đột nhiên nổi lên, động đất, bầu trời u ám, trời đất đều rung chuyển, bầu trời tối tăm, hơn nữa có 12 tia sáng trắng, đỏ phóng thẳng lên trời. Lúc ấy quan Thái sử liền nói: “Thánh nhân phương Tây thị hiện diệt độ rồi.” Sau đó Khổng tử cảm thán nói, kỳ thực trong ghi chép nói Khổng tử, nhưng hoài nghi có lẽ là Lão tử. Việc này có ghi chép, Lão tử cảm thán nói rằng: “Sao ta ra đời muộn như vậy? Sao Phật nhập Niết-bàn sớm như vậy? Không gặp được Phật Thích-ca, trong tâm ta vô cùng xót xa!” Lão tử nói như vậy.
Đến thời Đông Hán vào năm Canh Thân, năm thứ ba niên hiệu Vĩnh Bình của Hán Minh Đế, Hán Minh Đế mộng thấy người bằng vàng cao 6 trượng, trên đầu có hào quang sáng bay vào trong cung điện. Minh Đế liền hỏi quần thần: giấc mộng này là điềm báo gì? Quan Thái sử tên là Phó Nghị liền trả lời rằng: “Thần nghe bên Tây Vực có thần, hiệu là Phật, bệ hạ mộng thấy chắc hẳn là ngài.” Quan Thái sử này là người học rộng nghe nhiều, ông nói: nghe nói bên Tây Vực có thần, trong khái niệm của họ chỉ có thể cho rằng Phật chính là thần. Bởi vì thần, bạn xem chữ “thần”, bên trái có chữ “thị”, phía sau là chữ “thân”, phía trên chữ “thị” là chữ nhị, phía dưới vạch xuống ba đường, chữ “nhị” phía trên là chỉ cho chữ “thượng”. Thời xưa chữ “thượng” chính là “nhị”, nghĩa là ông trời hiển lộ điềm báo cho con người. Chữ “thân” nghĩa là thông đạt, đều rất thông hiểu. Ý nghĩa của chữ “thần” tức là rất am hiểu về các hiện tượng mà ông trời báo trước. Dùng lời của chúng ta hiện nay để nói là người thông đạt hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, người này gọi là thần. Ý nghĩa thật sự của chữ thần là như vậy, chứ không phải chữ thần nghĩa là Thượng đế được nói đến trong các tôn giáo phương Tây hiện nay. Thần nhân này chính là một bậc đại thánh nhân, hiểu tường tận hết thảy các hiện tượng mà ông trời báo trước, các hiện tượng mà ông trời báo trước tức là tất cả các hiện tượng.
Danh hiệu của vị thần này gọi là Phật. Bởi vì đây là dùng âm chữ Phạn, đầy đủ là Phật-đà-da, tiếng Anh gọi là Buddhaya. Chữ Phật này là chữ mới tạo, khi ấy triều nhà Hán đã biết Phật rồi, nhưng hoàng đế vẫn chưa chính thức đi mời thỉnh Phật pháp, song chữ này đã có rồi, chữ này cũng là chữ mới tạo ra, trước đây không có chữ Phật. Đó hoàn toàn là dùng âm, bởi vì bên phải là chữ “phất”, bên trái là chữ “nhân”, cho nên Phật là một người, lại có âm này nữa, cho nên hợp lại, cộng thêm chữ nhân bên cạnh gọi là “Phật”. Ông nói bệ hạ mộng thấy vị thần này, bởi vì trong giấc mộng ông nhìn thấy trên lưng vị thần này còn đeo bao đựng tên, đeo tên, hai mũi tên, vừa hay phía trên chữ “phất” có hai mũi tên đi xuống, đại khái vua mộng thấy người này chắc là Phật. Đến năm thứ 7, tức là năm Giáp Tý thời Hán Minh Đế năm thứ 7, Minh Đế lệnh cho 18 người như Lang trung Thái Am và Trung lang tướng Tần Cảnh, Tiến sĩ Vương Tôn v.v. sang Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Sang Ấn Độ thỉnh được hai vị tôn giả Ca-diếp-ma-đằng, Trúc-pháp-lan, thế là các ngài liền dùng ngựa trắng để chở kinh và mang tranh vẽ Thích-ca Mâu-ni Phật về. Năm Vĩnh Bình thứ 10, sau 3 năm vào năm Đinh Mão thì đến Lạc Dương, tạm thời ở tại Hồng Lô tự.