Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Tập 157
Chủ giảng: Tịnh Không Pháp Sư
Chuyển ngữ: Hạnh Chơn
Biên tập: Bình Minh
Thời gian: 04.10.2010
Địa điểm: Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội – Hongkong
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi xuống. Mời quý vị xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 182, hàng thứ ba từ dưới đếm lên, bắt đầu xem từ phẩm Phạm Hạnh trong Kinh Niết Bàn.
“Phẩm Phạm Hạnh Kinh Niết Bàn nói: Vì sao gọi là Như Lai? Như những gì Chư Phật quá khứ nói không hề thay đổi, vì sao nói không thay đổi? Chư Phật quá khứ vì độ chúng sanh mà nói 12 bộ kinh, Như Lai cũng như vậy, nên gọi là Như Lai”.
Ý trong kinh nói đã hiển thị cho chúng ta rất rõ ràng, rất minh bạch. Chư Phật Bồ Tát ứng hóa đến thế gian, các ngài đến để làm gì? Để nói 12 bộ kinh, giảng kinh dạy học, các ngài đến thế gian là vì điều này. Vì sao phải giảng kinh dạy học? Cổ đức nói rằng, “từ bi vi bổn, phương tiện vi môn”. Từ bi là không nhẫn tâm khi thấy chúng sanh chịu khổ, làm sao để giúp chúng sanh rời khổ được vui. Khổ phải lìa khổ cứu cánh, khổ cứu cánh là gì? Là sanh tử, sanh tử là cái khổ lớn. Làm sao để giúp chúng sanh vĩnh viễn thoát ly nỗi khổ lớn của sanh tử.
Lạc là gì? Lạc là cứu cánh lạc, thuật ngữ trong kinh gọi là Đại bát niết bàn, đây là dịch âm tiếng Phạn. Theo ý này mà nói, niềm vui vĩnh hằng sẽ không có khổ, viễn ly tất cả khổ, đây là cảnh giới của đại niết bàn. Trong kinh luận nói khổ, thông thường nói ba loại lớn: Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Trong khổ khổ có tám loại, gọi là tám khổ giao xen lẫn nhau, đây là tám loại lớn. Bốn loại ở trước là sanh lão bệnh tử, không ai tránh khỏi, giàu nghèo phú quý đều lãnh chịu như nhau. Ngoài điều khổ này ra còn có cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm xí thạnh khổ đặc biệt hiển thị ở thân tâm chúng ta không được mạnh khỏe, nên nhiều ưu tư nhiều bệnh hoạn. Hạng người này không ít. Đại bát niết bàn vĩnh viễn không có những hiện tượng khổ, quả báo khổ này. Đức Phật là vì điều này. Vì sao dùng phương pháp dạy học? Vì chúng ta không biết khổ từ đâu đến, khổ đến từ mê hoặc tạo nghiệp, mê hoặc tạo nghiệp quả báo chính là khổ. Nên Phật ví luân hồi lục đạo là biển khổ: khổ hải vô biên, quay đầu là bờ.
Chúng ta biết Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và tất cả Chư Phật Bồ Tát thị hiện ở thế gian, là giúp chúng ta quay đầu. Quay đầu, là từ mê hoặc điên đảo quay đầu chính là giác ngộ, giác mà không mê, nghĩa là đã quay đầu. Mê mà không giác, đây là nhân của luân hồi lục đạo. Từ đó cho thấy, ân huệ lớn nhất mà Phật đối với chúng sanh, là giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Phương tiện để giúp chúng sanh phá mê khai ngộ- phương tiện vi môn. Phương là phương pháp, tiện là tiện nghi, hợp lại nói là phương pháp thích hợp nhất, phương pháp thích ứng nhất chính là dạy học. Cho nên đức Thế Tôn xuất hiện, thị hiện trong thân phận một người thầy giáo. Là một thân phận như thế, chúng ta cần phải biết. Trong kinh điển chúng ta thường thấy một danh từ, gọi là: “Thiên nhơn sư”, trong mười hiệu có Thiên Nhơn Sư. Cho nên thân phận của Phật là người thầy giáo, dùng thân phận này xuất hiện ở thế gian. Ngài thị hiện cho chúng ta thấy, năm 30 tuổi khai ngộ_ngày xưa Khổng tử nói một đời của ông, 15 tuổi đặt chí hướng vào học tập, 30 học xong. Đức Phật cũng gần như vậy, 19 tuổi rời xa gia đình. Gia đình của ngài là gia đình đế vương, vậy mà ngài từ bỏ vinh hoa phú quý ra đi tham học. 19 tuổi đến 30 tuổi, thời gian 12 năm, tất cả học phái và Tôn giáo của Ấn độ ngài đều đến học hỏi. Không còn gì để học, cũng không còn nơi nào để học, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề, vấn đề lớn, ngàn vạn năm nay, nhân loại đều thảo luận vấn đề này: Vũ trụ từ đâu đến? Con người từ đâu đến? Tôi từ đâu đến? Vì sao có tôi? Đây là vấn đề lớn! Đức Thế Tôn học suốt 12 năm cũng không tìm ra đáp án, đành từ bỏ, không học nữa. Ngài liền nhập định dưới cây Tất Bát La bên bờ sông Hằng, ngài biết chỉ có thiền định thâm sâu mới có thể giải quyết được vấn đề. Định đến trình độ nhất định sẽ khai ngộ, quả nhiên không sai, Đức Phật đã khai ngộ. Khai ngộ, vấn đề được giải quyết, thành tựu trí tuệ đức tướng viên mãn, và bắt đầu công việc dạy học. 79 tuổi ngài viên tịch, dạy học được 49 năm.
Nếu ta hiểu giai đoạn hành nghi này một cách rõ ràng minh bạch, thì không thể nói Đức Phật và Tôn giáo có liên quan, cũng không thể nói không có liên quan, vì sao vậy? Vì ngài từng học Tôn giáo, tất cả Tôn giáo của Ấn độ ngài đều học qua, nhưng ngài không thuộc về một Tôn giáo nào cả. Thật vậy, ngài cũng không phải Tôn giáo. Theo tư tưởng của người xưa thì Đức Phật đúng nghĩa của một người thầy giáo, giống như Khổng tử vậy, dùng thân phận một người thầy giáo xuất hiện ở thế gian. Vì thế hàng đệ tử đời sau, xưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Bổn Sư, người thầy căn bản. Nói như cách nói hiện nay, chúng ta tiếp thu là giáo dục Phật giáo, người thầy đầu tiên sáng lập giáo dục Phật giáo, nên xưng ngài là Bổn Sư. Chúng ta với ngài là quan hệ thầy trò, chúng ta tự xưng đệ tử, đệ tử người bây giờ gọi là học sinh. Chúng ta với đức Phật Thích Ca Mâu Ni là mối quan hệ thầy trò. Chư vị Bồ Tát, A la hán trong quá khứ đều là học trò của Phật, hiện nay chúng ta cũng là học trò của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy chư Bồ Tát và A la hán với chúng ta có quan hệ gì? Là mối quan hệ đồng học, chúng ta có cùng một vị thầy. Họ học trước, chúng ta học sau, quan hệ của chúng ta là học huynh và học đệ, là mối quan hệ này. Bồ Tát Quán Thế Âm là học huynh. Mối quan hệ thuộc về luân lý, chúng ta cần phải hiểu rõ ràng minh bạch. Giữa chúng ta không có quan hệ Tôn giáo, chúng ta hoàn toàn là quan hệ thầy trò, là mối quan hệ đồng học với Bồ Tát và A la hán. Đều là những người tiếp thu giáo dục Phật giáo. Mục tiêu sau cùng của giáo dục Phật giáo, là giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Kim Phật cũng như cổ Phật, vì chúng ta giảng 12 bộ kinh. 12 bộ kinh này, ba loại trước là thể văn khác nhau, ba loại thuộc thể văn. Mấy loại sau thuộc về nội dung những gì ngài nói, ngài nói những gì? Nói về hai phần là lý luận và chân tướng sự thật. Trong 12 bộ kinh chúng ta học đến loại thứ 8, hôm nay chúng ta bắt đầu từ loại thứ chín.