/ 6
532

NHẬN THỨC PHẬT GIÁO

(Giáo Dục Hạnh Phúc Mỹ Mãn)

Phần 5

 

Người giảng: Lão Pháp sư Tịnh Không

Địa điểm: Boston Úc Châu

Điều sau cùng là lợi hòa đồng huân. Lợi, ngày nay chúng ta gọi là đời sống vật chất, ở trong tăng đoàn các vị phải biết. Tăng đoàn cũng có nghĩa rộng, tuyệt đối không hoàn toàn chỉ người xuất gia, những người xuất gia đương nhiên là Tăng đoàn, thế nhưng ý nghĩa của nó không hạn cuộc ở người xuất gia; các đồng tu tại gia, nếu như người một nhà bạn đều học Phật, người cả nhà đều quy y thì cả nhà bạn chính là một tăng đoàn. Có thể thấy được danh từ tăng đoàn này dùng được rất rộng rãi. Vậy thì trong một công ty, từ ông chủ cho đến công nhân đều tu học Phật pháp thì công ty của bạn chính là tăng đoàn. Cho nên tăng đoàn là đoàn thể, nghĩa rất rộng lớn, không phải là nghĩa hẹp, chỉ cần tuân thủ sáu điều giới luật này thì đó chính là một tăng đoàn. Trong tăng đoàn chú trọng có lợi phải chia đều, cách chia đều này cũng không phải nói là mọi người đều một mực bình đẳng. Người xuất gia có thể nói là đời sống nhất mực bình đẳng. Ở trong một tự viện, từ trụ trì đến từng người trong chúng, đãi ngộ đời sống vật chất nhất định là bình đẳng, không có đặc quyền giai cấp. Nhưng trong công ty, từ ông chủ đến công nhân, chức vụ đương nhiên là không như nhau, vậy thì bình đẳng phải nói thế nào vậy? Bạn có thể có được đãi ngộ công bằng thì đó chính là bình đẳng. Do đây mà biết, trong Phật pháp mỗi câu mỗi chữ là sinh động, không phải là khô cứng. Tóm lại mà nói, thật sự phù hợp, hợp tình hợp lý, hợp pháp thì gọi là bình đẳng, đó là sáu phép hòa kính.

Phật dạy chúng ta khi ở chung với mọi người, chúng ta nhất định phải tuân thủ sáu phép hòa kính cho dù là người chủng tộc khác nhau, đoàn thể khác nhau, cho dù họ không có tu học sáu phép hòa kính, thì chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật vẫn phải y theo tinh thần sáu phép hòa kính mà làm. Đây mới là một đệ tử Phật, không được trái với lời giáo huấn của Phật Đà. Không thể nói người khác không làm thì chúng ta cũng có thể không làm, việc này không thể nói như vậy được. Phật Bồ Tát làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, mẫu mực đẹp nhất. Còn chúng ta là đệ tử Phật, là người học Phật thì không luận là tại gia hay xuất gia, nhất định phải làm ra một tấm gương thật tốt cho người chưa học Phật, đây là tinh thần của Phật pháp.Đây chính là tự độ, độ người, hoằng pháp lợi sanh. Tuy là chúng ta không dùng lời nói để giáo hóa chúng sanh, nhưng đời sống của chúng ta, hành trì của chúng ta, nhất cử nhất động của chúng ta để cho người khác thấy, trong lòng họ tự sanh ra hiệu quả chuyển hóa thầm lặng, đó chính là chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở thế gian, giáo hóa chúng sanh.Việc này đáng để chúng ta học tập, cần thiết phải học tập.

Tam học Giới – Định – Huệ

Khóa mục thứ ba là Tam học. Tam học mọi người đều biết, tam học thì chân thật đã bước vào khóa trình của Phật pháp, hai điều phía trước là nền tảng. Bạn xem, trước khi học Phật thì trước tiên phải tu phước báo, không có phước không thể học Phật. Sau đó dạy bạn một số nguyên tắc, bạn phải tuân thủ những nguyên tắc này khi đối nhân xử thế tiếp vật, như vậy bạn mới có thể học Phật. Phật pháp không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật đều nói, chúng ta đem quy nạp lại cũng không ngoài ba loại lớn. Kinh điển Phật giáo hiện tại của chúng ta ở Trung Quốc biên tập thành, gọi là Đại Tạng Kinh. Trong Đại Tạng Kinh đã phân làm ba bộ phận là Kinh Tạng, Luật tạng, Luận tạng. Tạng cũng giống như cái kho vậy, Kinh, Luật, Luận cất vào trong đó. Phật kinh truyền đến Trung Quốc sớm nhất là vào thời kỳ hậu Hán, khi đến Đường Tống thì công tác phiên dịch kinh này đã hoàn thành khoảng 90%. Vào triều nhà Tống thì có người nghĩ ra là phải đem kinh điển của Phật trùng tân phân loại, chỉnh lý lại. Do đó đã hình thành Đại Tạng kinh, đem kinh Phật phân làm ba loại lớn, y theo Kinh, Luật, Luận này phân làm ba loại lớn, nhờ đây đã có sự ảnh hưởng rất lớn.

Đối với văn học Trung Quốc, thời đại nhà Minh thì biên tập “Vĩnh Lạc Đại Điển”, khoảng năm Khang Hy nhà Thanh thì biên tập “Đồ Thư Tập Thành”, thời Càn Long thì biên tập “Tứ Khố Toàn Thư”. Cơ Cấu tưởng phân loại đó đều là học được từ trong Phật giáo, phân loại rõ nhất là từ nơi Phật giáo. Cho nên thời Càn Long biên tập “Tứ Khố Toàn Thư” của Trung Quốc chính là từ trên cấu tưởng đó mà làm ra tác phẩm này. Kinh tạng chủ yếu là nói về Thiền định, về định học; Luật tạng là nói giới học; Luận tạng là nói Huệ học, đây chính là Giới, Định, Huệ tam học. Bạn muốn nói, Phật giảng nhiều kinh đến như vậy, nội dung là nói cái gì? Dùng ba chữ này để trả lời thì nhất định không sai, Phật giảng Giới, giảng Định và giảng Huệ. Trong giới học then chốt nhất là giảng qui luật, giảng trật tự. Địa cầu có bốn mùa thay đổi là Xuân, Hạ, Thu, Đông; con người cũng cần phải có trật tự, phải có qui luật thì con người mới trải qua được đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Nếu như mất đi qui luật thì thế giới này đại loạn cho dù ngày nay bạn có phước báo có tiền của. Người xưa thường nói: “giàu mà không vui”, bạn sống trong lo sợ, bạn không có cảm giác an toàn là do nguyên nhân gì vậy? Chúng ta đã bỏ mất đi trật tự. Trong giới học giảng giải cái đạo lý này cho chúng ta. Vì sao phải có trật tự này? Vì sao phải tuân thủ trật tự? Đạo lý, phương pháp, cảnh giới trong đó giảng nói được rất thấu triệt, sau khi đọc rồi chúng ta không thể không bội phục, cảm thấy những gì Phật đã nói rất có đạo lý. Thực tế mà nói. Giới-Định-Huệ tam học này đã đem sự việc hiển lộ phơi bày ra rồi.

/ 6