/ 50
9

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Tập 44

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 19 tháng 05 năm 2010

Địa điểm: Tịnh tông học viện Úc Châu

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu


Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi. Mời xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 47.

Chúng ta xem “đoạn thứ tư: phán giáo”. Thứ nhất là bốn giáo và năm giáo, “các sư xưa nay phán định giáo tướng có mười hai nhà, trong đó nổi tiếng nhất là bốn giáo do ngài Thiên Thai lập và năm giáo của tông Hiền Thủ”. Phán giáo, đây cũng là việc mà sau này tổ sư đại đức phát minh ra. Ba tạng, hai tạng, năm thời, phán giáo, trong thời của Thích-ca Mâu-ni Phật hoàn toàn không có. Sau này các tổ sư đại đức nghiên cứu giáo học trong 49 năm này của Thế Tôn, các ngài rốt cuộc đã dùng phương pháp nào? Nghiên cứu những giáo học này, các ngài đã phân thành rất nhiều khoa mục. Việc này đối với đồng học học Phật sau này mà nói thì xác thực là tiện lợi, thế nhưng nói tóm lại, những thứ này tuy đáng để tham khảo, song không thể chấp chặt vào những nguyên tắc này, vậy thì bạn sai rồi. Giáo học cả đời của Thế Tôn vô cùng linh hoạt, đức Phật đã nói rất rõ ràng trong kinh: “Như Lai không có pháp nhất định để nói”. Trong kinh Lăng-nghiêm đã nói rất rõ với chúng ta, “tùy tâm chúng sanh mà ứng với khả năng lĩnh hội của họ”, có thể thấy rằng Phật tùy theo căn tánh của chúng sanh, tùy theo trình độ của chúng sanh, chứ không có phương pháp nhất định. Như phần trước chúng ta học đến “phương tiện rốt ráo”, đó là đại trí tuệ, đại thần thông mới có thể làm được, chứ không phải như cách phân chia này của hàng hậu học. Cách phân chia này là thể hiện sự dạy học trong một đời thuyết pháp của Thế Tôn. Đây là điều mà người học Phật chúng ta không thể không biết. Phán giáo, giáo là dạy học, nói theo hiện nay là chế độ dạy học; người xưa gọi là nghi thức dạy học, cho nên có giáo nghi, có giáo pháp, pháp là phương pháp, nghi là nghi thức, ngày nay chúng ta gọi là chế độ. Ví dụ như mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, nghiên cứu sinh đều thuộc về chế độ, thời xưa thì gọi là giáo nghi. Phương pháp là phương pháp dạy học, đối với hàng lợi căn thì dùng phương pháp nào, hàng độn căn thì dùng phương pháp nào. Phương pháp là tùy theo người mà có khác biệt, nghi thức là tùy theo tiến độ không tương đồng mà có khác biệt. Bắt đầu học tập, đây là mới vào cửa, gọi là tiểu học, sau đó dần dần nâng cao lên, nâng lên đến trung học, nâng lên đến đại học, nâng lên đến nghiên cứu sinh, loại phương pháp này gọi là tiệm giáo, từ từ nâng lên cao. Còn một loại nữa là đốn giáo, gọi là đứa trẻ thiên tài, họ không cần trải qua nhiều cấp bậc như vậy, vừa nhập môn là họ có thể vào lớp nghiên cứu sinh, họ đều không cần học các cấp tiểu học, trung học, đại học trước đó, đây là trường hợp đặc biệt. Có người như vậy không? Có, nhưng không nhiều, rất ít. Từ đó cho thấy, những cách nói này tùy theo người mà khác biệt, tùy theo thời mà khác biệt, tùy theo việc mà khác biệt, tùy theo nơi mà khác biệt, bạn đều phải hiểu, đây gọi là khế cơ. “Các sư xưa nay”, đều là rất lâu, không phải hiện nay, đại khái việc phân khoa phán giáo là vào thời đại Tùy Đường. Nói “xưa” là trước thời Tùy Đường, là người xưa, nói “nay” thì đại khái là vào thời Tùy Đường. Những tổ sư đại đức thời đó phân khoa phán giáo thành 12 nhà, trong 12 nhà này thì nổi tiếng nhất là Thiên Thai và Hiền Thủ. Cho nên người học giáo sau này không nương vào Thiên Thai thì nương vào Hiền Thủ, mãi cho đến những năm đầu Dân Quốc vẫn còn như vậy. Ngày nay chúng ta còn học những thứ này nữa hay không? Ngày nay không học nữa, đến thời của chúng tôi thì không học nữa. Không học thì làm thế nào? Thầy Lý đã đơn giản hóa những thứ này, viết thành một cuốn sách gọi là “Nghiên cứu giảng tòa nội điển”, chúng tôi chính là dựa theo sách này, sách này chính là gì? Là đơn giản hóa bốn giáo và năm giáo, điều này thích hợp với người thời nay, không giảng tường tận như người xưa, thế nhưng rất hợp khẩu vị của người thời nay.

“Bốn giáo của Thiên Thai là tạng thông biệt viên”, tiếp theo là giải thích đơn giản, “Tạng giáo chính là Tiểu thừa”, tạng ở đây chính là ba tạng, là ba tạng kinh luật luận, mở ra ba khoa mục này. Kinh tạng nói về định học; luật tạng nói về giới học, nói về quy củ; luận tạng là nghiên cứu thảo luận, là khai trí tuệ, trong đây rất nhiều là một bên hỏi, một bên đáp. Mới vào cửa Phật thì phải học những điều này, học giới, tu định, khai trí tuệ. “Thứ hai là Thông giáo, tức là trong Đại thừa nói chung cả ba thừa, trùm chung ba căn”. Thông giáo ở đây chính là thông với Tiểu thừa phía trước, thông với Đại thừa phía sau, trong đây nói có Thanh văn thừa, có Duyên giác thừa, có Bồ-tát thừa, Thanh văn là Tiểu thừa, Duyên giác là Trung thừa; nếu nói hai thừa thì chính là Duyên giác và Thanh văn hợp lại, được xem là Tiểu thừa giáo, Bồ-tát là Đại thừa; nói ba thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. “Trùm chung ba căn”, ba căn thượng trung hạ đều nói đến, đây giống như bậc trung học của Phật giáo vậy. “Ba là Biệt giáo, tức là giáo pháp được nói trong kinh Đại thừa, không thông với Tiểu thừa”. Ở trong đây không có giáo nghĩa Tiểu thừa, thật sự đã nâng cao, nhưng họ vẫn có thể nâng cao hơn nữa, nâng cao lên đến Viên giáo, Biệt giáo ví cho đại học, Viên giáo ví cho nghiên cứu sinh. “Bốn là Viên giáo, tức là pháp giới tự tại, viên mãn đầy đủ, một là hết thảy, hết thảy là một, pháp môn vô ngại v.v.”. Đây mới là sự viên mãn của Đại thừa, trong đây nói đa phần là pháp thân Bồ-tát, cho đến Phật quả rốt ráo. Đây là giáo tướng của Thiên Thai, chính là cách dạy học, nghi thức dạy học, người hiện này gọi là chế độ dạy học, như vậy mọi người dễ hiểu.

/ 50