TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Tập 38
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 13 tháng 05 năm 2010
Địa điểm: Tịnh tông học viện Úc Châu
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi. Mời xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 40, dòng thứ 6 từ dưới lên. Chúng ta đọc một đoạn văn:
“Phần đầu của Hành Quyển Kệ đã khai thị về căn cơ của kinh Đại Vô Lượng Thọ rằng: Căn cơ của kinh này là hết thảy phàm ngu thiện ác, Đại thừa, Tiểu thừa”. Phần trước chúng ta học đến đây, hôm nay xem tiếp: “Thuyết của đại sư, trên khế hợp tâm thánh, dưới hợp khắp các căn cơ, thật có công lớn với Tịnh độ. Vì vậy, nhiều pháp sư Trung Hoa, Nhật Bản đề cao thuyết này”. Ở đây lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với chúng ta, những điều đại sư Thiện Đạo nói, phía trước đều do đại sư Thiện Đạo nói, những lời này nói rất hay. Tiếp theo là lời tán thán của ngài, “trên khế hợp tâm thánh”, thánh ở đây chỉ cho chư Phật Như Lai, xác thực chư Phật Như Lai nói bộ kinh này, giảng bộ kinh này, hoằng dương bộ kinh này, ý nghĩa chân thật chính là phổ độ chúng sanh. “Dưới hợp khắp các căn cơ”, hợp khắp nghĩa là trùm khắp, hết thảy mọi chúng sanh đều bao gồm trong đó, thật sự là trùm khắp ba căn, lợi độn cùng thâu, đối với pháp môn Tịnh tông mà nói, không người nào không khế cơ, chẳng ai không phải đương cơ, then chốt ở chỗ chúng sanh có tin tưởng hay không, có chịu phát nguyện hay không. Cho nên đại sư Thiện Đạo có cách nói, cách nhìn không giống với tổ sư đại đức xưa nay, cách nhìn của ngài thật sự có công lớn đối với pháp môn Tịnh độ. “Vì vậy, nhiều pháp sư Trung Hoa, Nhật Bản đề cao thuyết này”, vào đời Tùy Đường, Nhật Bản và Hàn Quốc đều phái rất nhiều người xuất gia đến Trung Quốc du học, cho nên Tịnh tông lưu thông ở Nhật Bản và Hàn quốc đa phần đều tuân theo cách nói của đại sư Thiện Đạo. Tiếp theo nêu lên một ví dụ: “Như sách Hợp Tán của Nhật Bản nói”, Hợp Tán là sách do pháp sư Quán Triệt trước tác. “Trong nguyện thứ 18, chúng sanh mười phương, chúng sanh trong ba bậc đều là phàm phu đầy triền phược, họ chính là căn cơ”. Những cao tăng đại đức Nhật Bản này cho rằng trong nguyện thứ 18 không nói đến Bồ-tát, cũng không nói đến A-la-hán, mà nói chúng sanh mười phương, nói chúng sanh trong ba bậc, ba bậc này đều là phàm phu, là phàm phu lục đạo, khi sắp mạng chung dù một niệm, mười niệm đều được vãng sanh. “Sau lại nói rằng: Như ngài Nguyên Hiểu nói”, sư Nguyên Hiểu là người truyền Tịnh độ tông của Hàn Quốc, “bốn mươi tám đại nguyện, trước hết vì phàm phu, sau kiêm vì thánh nhân tam thừa”. Nói cách khác, A-di-đà Phật nói kinh Vô Lượng Thọ, mười phương Như Lai tiếp nhận pháp môn này, hoằng truyền pháp môn này khắp nơi, mục đích là phổ độ phàm phu nghiệp chướng sâu nặng.
Tâm của Phật giống như tâm của cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, chư Phật đối với chúng sanh, đều cùng một tâm như nhau. Không gì ngoài việc mong hết thảy chúng sanh sớm ngày thành Phật. Có thể thành Phật được không? Đáp án là chắc chắn, không mảy may hoài nghi, vì sao vậy? Bởi tất cả chúng sanh vốn là Phật. Trong kinh giáo Đại thừa, Phật Bồ-tát thường nói với chúng ta “hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh”, bạn vốn là Phật, chỉ cần bây giờ trong tâm bạn nghĩ đến Phật, vậy sao không thành Phật cho được? Cho nên phàm phu thành Phật chỉ trong một niệm, đúng là một niệm tương ưng thì niệm đó là Phật, niệm niệm tương ưng thì niệm niệm là Phật. Vấn đề ở chỗ là bạn có chịu niệm hay không? Bạn niệm cái gì thì nó biến thành cái đó, y chánh trang nghiêm trong mười pháp giới đều đang biến đổi trong từng sát-na, nó không phải là pháp nhất định. Trong giáo pháp Đại thừa, Thế Tôn thường nói với chúng ta, Phật không có pháp nhất định để nói, vì sao vậy? Vì toàn bộ vũ trụ đều đang biến đổi trong từng sát-na, căn bản là không có pháp nhất định, cho nên Phật giáo hóa chúng sanh cũng không có pháp nhất định. Biến đổi từ đâu mà có? Người nào chủ trì sự biến đổi này? Trong giáo pháp Đại thừa, Phật thường nói “hết thảy pháp chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến”, chẳng phải đã nói rất rõ rồi sao? Vì sao lại có nhiều biến đổi như vậy? Tâm có thể hiện, có thể sanh, những pháp được hiện được sanh này, chúng sẽ sinh ra biến hóa, đó là thức khởi tác dụng. Thức là gì? Thức là phân biệt, là chấp trước. Thế nên bạn nghĩ xem, không cần xét người khác, hãy xét chính mình, phân biệt của chúng ta vô lượng vô biên, chấp trước của chúng ta cũng vô lượng vô biên, hết thảy pháp được sanh ra, nó không phải là pháp nhất định, nó sanh diệt trong từng sát-na. Cho nên trong sát-na tùy theo ý niệm của chúng sanh mà các pháp khởi lên sự biến hóa trong từng sát-na, dù là chư Phật Như Lai, Pháp thân Bồ-tát ứng hóa trong lục đạo, đúng như kinh Lăng-nghiêm nói “tùy tâm chúng sanh mà ứng với khả năng lĩnh hội của họ”, vì vậy Phật cũng không có pháp nhất định để nói, mà tùy theo sự biến hóa của tất cả chúng sanh, Phật chân thật là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Trong tùy thuận có thứ bất biến, tùy thuận là biến, sự phiền phức của phàm phu chúng ta chính là tùy theo chúng sanh mà biến hóa, biến đổi theo duyên, vậy thì khổ rồi. Phật Bồ-tát cao minh ở chỗ là tùy duyên mà bất biến, đó là các ngài cao minh, duyên nào cũng có thể tùy, mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều có thể tùy thuận. Bất biến là gì? Bất biến là các ngài dùng chân tâm. Thế nào là chân tâm? Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, những thứ này bất biến, vĩnh hằng bất biến. Mười chữ này chính là tâm đại Bồ-đề mà kinh giáo thường nói, trong tứ thánh pháp giới dùng tâm này, ở cõi trời người, ba đường ác, địa ngục vẫn dùng cái tâm này, y chánh trang nghiêm mỗi ngày đều đang biến hóa, biến hóa trong từng sát-na, nhưng tâm Bồ-đề không biến đổi. Phàm phu thì không được, phàm phu là biến hóa theo duyên. Thế nào là biến hóa theo duyên? Tùy theo cảnh giới bên ngoài mà khởi lên thất tình ngũ dục, tham sân si mạn, đã biến đổi rồi.