TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Tập 27
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 02 tháng 05 năm 2010
Địa điểm: Tịnh tông học viện Úc Châu
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi. Mời xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi bảy, dòng thứ ba từ dưới lên, chúng ta đọc từ chỗ này:
“Hoặc nghi niệm Phật làm sao có công đức như thế được, bởi vì năng niệm và sở niệm đều là thật tướng. Di-đà Yếu Giải nói: Quang thì ngang khắp mười phương, thọ thì dọc suốt ba đời, ngang dọc nối nhau trọn khắp, đều là thể của pháp giới. Lấy thể này làm thân và cõi nước của Di-đà, cũng tức là lấy thể này làm danh hiệu Di-đà, cho nên danh hiệu Di-đà chính là lý tánh bổn giác của chúng sanh. Trì danh là thỉ giác hợp với bổn giác, thỉ giác và bổn giác không hai, chúng sanh và Phật không hai, cho nên một niệm tương ưng thì niệm ấy là Phật, niệm niệm tương ưng thì niệm niệm là Phật”. Lần trước chúng tôi giảng tới chỗ này, hôm nay xem phần kinh văn tiếp theo. “Từ lời trên có thể thấy danh hiệu Di-đà chính là thể của pháp giới, cho nên công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn”. Đây là tổng kết những nghĩa thú được nói ở trên, để chúng ta nhận thức danh hiệu Di-đà. Câu danh hiệu này rất đơn giản, đứa trẻ ba tuổi cũng biết niệm, nhưng quả thật nghĩa lý của danh hiệu, đừng nói là ông lão tám mươi không hiểu rõ, mà đúng như đức Phật nói trong kinh: “Chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu rốt ráo”, Bồ-tát Đẳng giác đối với nghĩa lý sâu xa của câu danh hiệu này cũng giống như nhìn trăng qua lớp lụa mỏng, công đức của danh hiệu dẫu mười phương chư Phật giảng nói khắp vô lượng vô biên cõi nước cũng chẳng thể nói cùng tận. Đại sư Ngẫu Ích nói những lời này với chúng ta, mỗi câu đều là lời thật, vì danh hiệu chính là thể tánh của pháp giới, nên công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn.
Một người suốt đời có thể niệm một câu Phật hiệu thì công đức không thể nghĩ bàn, song họ có được thọ dụng hay không thì rất khó nói, thật sự được thọ dụng thì phải đầy đủ ba điều kiện tín, nguyện, hạnh. Vãng sanh còn phải đầy đủ điều kiện như kinh nói: “Không thể ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về nước kia”, bạn phải ghi nhớ, ít thiện căn, phước đức, nhân duyên vẫn không được. Do đây có thể biết, nếu chúng ta muốn thật sự vãng sanh Tịnh độ trong đời này thì bạn phải niệm niệm tu tập tích lũy thiện căn, phước đức, nhân duyên. Chúng ta cũng từng nghe nói, trong kinh này đức Phật cũng nói, khi lâm chung mười niệm ắt sanh, liệu có mâu thuẫn với câu “không thể ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về nước kia” không? Có tình hình này hay không? Tôi tin là rất nhiều người có hoài nghi này. Hoài nghi này từ xưa tới nay đều có, trong kinh điển, trước thuật, giảng giải, cổ đại đức cũng nói rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Người cả đời không tin tôn giáo, không tin Phật pháp, nhưng lúc lâm chung, ngẫu nhiên gặp được duyên phận như vậy, gặp được một thiện hữu khuyên họ niệm Phật, khuyên họ cầu sanh Tịnh độ, họ trong khoảng sát-na này, sau khi nghe xong liền tin tưởng, liền tiếp nhận, liền phát nguyện cầu sanh Tịnh độ thì vẫn có thể vãng sanh. Đây chẳng phải mâu thuẫn với câu trong kinh Di-đà là “không thể ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về nước kia” hay sao? Phàm phu chúng ta cảm thấy ở đây có vấn đề, nhưng đối với người thật sự có công phu, họ thấy không những không có vấn đề, mà còn hoàn toàn tương ưng với điều được nói trong kinh. Do nguyên nhân gì? Đời này tuy họ không tu, nhưng đời trước họ có tu, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đã tích lũy thiện căn, phước đức, nhân duyên, nhưng đời này không có cơ duyên gặp được Phật pháp, gần như sống uổng một đời. Nào ngờ lúc lâm chung họ gặp được thiện hữu, vừa được nhắc nhở thì hạt giống thiện căn phước đức trong a-lại-da thức của họ liền phát khởi, họ liền thành tựu. Có phải là ngẫu nhiên hay không? Không phải. Đại sư Huệ Năng 24 tuổi, ở trong thất phương trượng của Ngũ tổ chỉ nghe một chút ít kinh như thế mà đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó có phải là ngẫu nhiên hay không? Nếu là ngẫu nhiên thì trong hội của Ngũ tổ, học trò đông ngần ấy, theo ngài nhiều năm như vậy, vì sao không khai ngộ? Người học Phật nhất định phải biết, nhân quả thông ba đời, thiện căn, phước đức, nhân duyên đã trồng trong đời quá khứ, tới đời này duyên chín muồi, người ấy liền hưởng thụ được; nếu đời này không có duyên thì vẫn phải là đời sau đời sau nữa, chắc chắn sẽ có lúc gặp được duyên, nhưng không nhất định là khi nào, chúng ta phải biết điều này. Do vậy, đối với những điều mà kinh điển nói, những điều mà tổ sư đại đức dạy, nếu chúng ta chưa thể tin tưởng thì có thể giữ mối nghi ấy, chứ không được phản đối. Giữ mối nghi là thế nào? Chỗ này mình không hiểu, nhưng mình không hoài nghi hay phản bác, do đức hạnh và trí tuệ của chính mình vẫn chưa đủ. Mối nghi ấy là chuyện tốt, cổ đại đức thường nói tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ, không nghi thì không ngộ. Nghi ở đây không phải là hoài nghi, mà là sau khi nghe rồi, ta tin lời họ nói là có đạo lý, nhưng hiện nay trí tuệ và đức hạnh của mình chưa đủ, còn phải dụng công thêm, nói chung sẽ có ngày ta hiểu rõ vấn đề này. Như vậy là chính xác, đây là tâm thái tu học tốt đẹp trong Phật môn.