TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Tập 26
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 30 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hiệp hội giáo dục Phật-đà Hồng Kông
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi. Mời xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi lăm, hàng thứ tư từ dưới lên, xem từ chữ cuối cùng.
“Lại nữa, bài Tán Tâm Bồ-đề nói: Nếu ai cầu Phật huệ, thông đạt tâm Bồ-đề, từ thân cha mẹ sanh, mau chứng ngôi Đại giác”. Điều mà bốn câu kệ này nói, câu đầu tiên nói về học Phật, các đồng học chúng ta phải chú ý, học Phật là học điều gì? Chính là cầu Phật huệ. Phật huệ ở đâu? Phật huệ là vốn sẵn có, tuy sẵn có nhưng chúng ta đã mê mất. Cầu Phật huệ chính là tìm lại trí tuệ bát-nhã sẵn có trong tự tánh, đó gọi là học Phật, thật sự học Phật. Trong Đại Kinh từng giây từng phút nhắc nhở chúng ta một câu mà đức Phật đã nói rất nhiều lần: “một tức là hết thảy, hết thảy tức là một”, tìm được Phật huệ thì toàn bộ vô lượng công đức trong tự tánh đều tìm được. Đức Phật thường nói về trí tuệ và đức tướng, đây là nêu lên cái chính yếu, nếu nói chi tiết thì không thể nói hết, vô lượng vô biên trí tuệ và đức tướng toàn bộ đều tìm lại được, đây là thật sự học Phật. Điều quan trọng nhất trong việc cầu Phật huệ là phát tâm Bồ-đề. Thông và đạt ở chỗ này đều có nghĩa là phát, thông là thông suốt, không có chướng ngại, đạt là đạt đến. Tâm Bồ-đề là gì? Hôm qua tôi đã nói với quý vị là chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, vậy viên mãn rồi. Hiện nay chúng ta tìm lại tâm Bồ-đề như thế nào? Thứ nhất, tâm chúng ta không chân thành, vì sao nói tâm chúng ta không chân thành? Tâm chúng ta có chấp trước, có phân biệt, có vọng tưởng. Tiên sinh Tăng Quốc Phiên đã định nghĩa chữ thành, “một niệm không sanh gọi là thành”, nếu có một niệm thì không thành rồi, điều này có cùng ý nghĩa với lời Phật nói trong kinh giáo. Thông thường chúng ta dùng lời dễ hiểu để nói, thì không khởi tâm, không động niệm chính là chân tâm, khởi tâm động niệm là vọng tâm.
Vì sao có vọng tâm? Đức Phật nói rất hay: “một niệm bất giác nên có vô minh”, một niệm bất giác này là vô minh, gọi là vô thỉ vô minh. Vô thỉ chẳng phải là quá khứ rất lâu không thể tìm được nên gọi là vô thỉ, không phải là nghĩa này. Thưa quý vị, vô thỉ là không có khởi đầu, đúng vậy, chính là một niệm ngay lúc này. Bồ-tát Di-lặc nói, trong một giây, hiện nay chúng ta dùng giây làm đơn vị, nếu trong một giây khảy ngón tay năm lần thì có 1.600 ngàn tỉ niệm, một niệm trong đó gọi là một niệm bất giác. Không phải là số niệm trong tưởng tượng của chúng ta, khi chúng ta tưởng tượng thì không biết đã có bao nhiêu niệm rồi, mỗi vọng tưởng đều dùng con số ngàn tỉ để tính, cho dù là niệm ngắn nhất trong một khảy ngón tay, thì trong một khảy ngón tay đã có 320 ngàn tỉ niệm, niệm mà đức Phật nói tới là niệm này, niệm này vô thỉ. Mỗi niệm đều vô thỉ, cho nên mỗi niệm cũng không diệt, không sanh không diệt, đây là thật, bạn không tìm được sự sanh diệt của nó, vì vậy đối với vấn đề này thì chúng ta thường hiểu nó là sanh diệt đồng thời, do tốc độ quá nhanh. Chẳng những không cách nào diễn tả bằng ngôn ngữ, mà ngay cả thức thứ sáu của chúng ta cũng không nắm bắt được nó, thức thứ sáu phân biệt nhanh nhạy nhất mà vẫn không nắm bắt được. Vì sao đức Phật biết rằng ý niệm vi tế như vậy chính là một niệm bất giác? Phật nói với chúng ta, từ Bồ-tát Bát địa trở lên đều biết. Chúng ta liền hiểu được Bồ-tát Bát địa có công phu định lực ra sao, bạn tu thiền định đến Bát địa thì sẽ thấy được, tâm phải thanh tịnh ngần ấy mới có thể cảm nhận được sự dao động sóng vô cùng vi tế đó đang sanh diệt, khởi lên rồi diệt mất có cùng ý nghĩa với sanh diệt. Cho nên Bồ-tát Bát địa thấy được, Cửu địa thấy được, Thập địa thấy được, Đẳng giác thấy được, Diệu giác thấy được, rất nhiều người thấy, không phải chỉ một. Vì vậy, Bồ-đề là một niệm giác ngay tức thời, vô minh là một niệm mê ngay tức thời. Một niệm giác là bất động, đại sư Huệ Năng nói rất hay: “nào ngờ tự tánh vốn không dao động”, đó là một niệm giác; một niệm mê là vọng động, là dao động, vô minh là tướng động, cho nên tướng nghiệp của a-lại-da chính là vô minh, vô thỉ vô minh.
Vì vậy chúng ta cầu Phật huệ thì nhất định phải phát tâm Bồ-đề, hiện nay tâm chúng ta không thành thật, chúng ta biết rõ điều này, đúng là không chân thành. Chúng ta phải học Phật, học pháp thân Bồ-tát, dùng chân tâm, dùng thành ý, phải bắt đầu ngay từ bây giờ, không được chờ đợi, chờ đợi là xong luôn, phải ngay hiện thời, đối nhân xử thế tiếp vật, sinh hoạt hay làm việc đều dùng tâm chân thành. Mọi người đều biết rằng trong xã hội này, nếu dùng tâm chân thành thì rất thiệt thòi, người khác đều lừa bạn, song bạn không lừa người. Bạn phải giác ngộ được, nếu người khác lừa mình mà mình cũng lừa họ, vậy người khác tạo lục đạo, mình cũng tạo lục đạo, người khác đọa đường ác, mình cũng đọa đường ác, chẳng phải là nghĩa như vậy sao? Nếu bạn muốn thoát khỏi ba đường ác, ra khỏi mười pháp giới, thì bạn hãy học Phật Bồ-tát, phải chân thật, không giả dối. Điều này rất quan trọng, đây gọi là giác ngộ! Trong một niệm bạn giác ngộ rồi, sẽ không trôi xuôi theo dòng nữa, đó là biển khổ của lục đạo, bạn không làm điều này nữa, mà dùng tâm chân thành. Tự thọ dụng của tâm chân thành là tâm thanh tịnh, xác thực không còn ô nhiễm nữa, điều này phải có công phu. Vì sao vậy? Trong thế gian này của chúng ta, đặc biệt là xã hội hiện nay, ngũ dục lục trần đều đang dụ hoặc bạn: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, thứ nào cũng đang dụ hoặc bạn, nếu bạn có thể không bị lay động thì mới đắc tâm thanh tịnh. Nếu bạn bị chúng làm dao động, tâm thanh tịnh sẽ mất ngay lập tức, đường Bồ-đề sẽ không thông suốt, con đường ấy liền không thông nữa; tâm thanh tịnh thì con đường ấy thông suốt. Sau khi đắc tâm thanh tịnh, còn phải tiến thêm bước nữa, đắc tâm bình đẳng, bình đẳng là tâm Phật, là Phật trong mười pháp giới, là tâm Phật. Tiến cao hơn nữa là Phật thật, không phải là Phật giả, tâm Bồ-đề liền thông suốt, liền đạt được, liền viên mãn.