Lời tựa 4: Vài Ba Chuyện Với Lão Hòa Thượng
(Dương Đại Dũng)
1. Lần đầu gặp gỡ và kết duyên
Khoảng năm Dân quốc thứ 42 - 43, do chiến loạn nên gia đình tôi mới chuyển đến Đài Loan. Mỗi khi đến ngày nghỉ, trong nhà lại có đồng hương, người thân và bạn bè tụ tập. Thời điểm ấy vật chất thiếu thốn, lòng người ủ rũ, mẹ tôi cũng chỉ tiếp đãi khách bằng trà thô cơm đạm. Không biết từ khi nào trong nhà xuất hiện một vị trưởng bối dáng gầy lạ mặt, nhà tôi còn dành sẵn một căn phòng nhỏ cho ông, để ông có thể đến ở bất cứ lúc nào. Mẹ tôi gọi ba anh em chúng tôi đến và dặn dò: “Từ nay về sau, khi gặp tiên sinh Từ các con phải kính trọng thầy Từ như là thầy giáo.”
Thầy Từ chính là lão hòa thượng, thầy một mình theo quân đội đến Đài Loan. Thầy với cha tôi quen nhau ở Viện nghiên cứu thực tiễn của cách mạng ở Dương Minh Sơn, vốn là đồng hương Lư Giang nên hai người vô cùng thân thiết. Nhà tôi ở Sĩ Lâm cách nơi lão hòa thượng làm việc không xa. Cha tôi mời lão hòa thượng đến nhà tôi chơi vào những ngày nghỉ, nói rằng: “Ở đây thường có đồng hương và các bậc trưởng bối tụ họp, đều là người từ đại lục sang Đài Loan. Chốn tha hương gặp lại người quen cũ, hỏi han nhau sức khỏe, cùng chuyện trò bày tỏ nỗi nhớ quê hương”. Điều này đã mở ra duyên phận kéo dài mấy chục năm giữa gia đình tôi và lão hòa thượng. Đặc biệt là bản thân tôi, ngoài sự tò mò đối với thầy Từ ra, còn có một sự ngưỡng mộ của người học trò đối với thầy và tình cảm của người con đối với cha.
Học trò non nớt chưa tỏ - Đại Dũng kính cẩn ghi.
2. Mưa dầm thấm lâu, sự dạy bảo không lời
Vào một ngày tháng nào đó năm Dân quốc thứ 45, ba anh em chúng tôi ở ngoài sân giành nhau một món đồ chơi, tranh cãi không ngừng xem ai là người sở hữu nó, ai là người được chơi trước. Đặc biệt là tôi, tuy là con thứ hai nhưng giọng to khí lớn, bắt nạt anh, chèn ép em, thái độ hống hách y như người chỉ huy. Tiếng cãi cọ làm kinh động đến thầy Từ đang đọc sách trong phòng. Thầy bước ra giải quyết phân tranh, hỏi rõ nguyên nhân tranh cãi, ba anh em mỗi người đều có lý lẽ riêng. Thật ra thầy đã nhìn thấu tâm tư của ba đứa nhóc nghịch ngợm chúng tôi, thầy nói: “Thầy ra một đề bài, ai trả lời đúng trước thì được chơi trước, ba anh em hãy viết chữ ‘nhường’ ra cho thầy”. Vì khát khao được chơi quá mãnh liệt nên tôi viết xong chữ “nhường” trước nhất, sau đó đắc ý lấy đồ chơi đi. Thầy lại nói với anh trai và em trai: “Đại Dũng đã viết đúng trước, nên em ấy được chơi trước, hai con hãy nhường em ấy nhé!”
Anh trai và em trai đều im lặng. Rõ ràng là bất công nhưng phải làm theo vì bất đắc dĩ. Dụng ý của thầy là ở câu “Dung 4 tuổi, biết nhường lê” trong Tam Tự Kinh, truyền thống của nhà Nho là lễ nghĩa, anh em hòa thuận, kính trọng thương yêu nhau. Thế nhưng khi đó vì sự ngu dốt vô tri và tham lam, nên tôi hoàn toàn không hiểu được. Tôi vẫn vui vẻ tự đắc, chẳng phải là “gặp việc nghĩa không nhường”, mà rõ ràng là “việc nên nhường lại không nhường”. Năm đó Đại Dũng tôi 6 tuổi đã học vỡ lòng biết chữ biết viết, anh trai Đại Vi lớn hơn tôi 2 tuổi, em trai Đại Trù 4 tuổi. Đến nhiều năm sau, tôi mới hiểu được dụng tâm tinh tế và độc đáo của thầy, mỗi khi anh em tụ họp thường nhắc lại chuyện hay tranh giành thuở nhỏ, chúng tôi vẫn trêu chọc nhau vì sự ngu ngốc không tự biết ngày ấy, lại càng nhớ đến và cảm niệm đức giáo hóa nhắc nhở của thầy năm xưa. Thì ra lùi một bước chính là đang tiến lên phía trước.
Học trò cố chấp không thay đổi - Đại Dũng tiếp tục ghi.
3. Từ bi hỷ xả, khoan dung vô lượng
Lão hòa thượng tạm trú ở nhà tôi vào khoảng năm Dân quốc thứ 43, đến năm 48, thầy quyết định xuống tóc xuất gia, thời gian đó khoảng từ 5 đến 6 năm, khi ấy tôi 4 đến 9 tuổi. Tính đến nay đã hơn 60 năm, có một số chuyện đã trở nên nhạt nhòa trong kí ức, nhưng có một số việc vẫn khắc sâu trong lòng. Mẹ tôi từng răn dạy ba anh em tôi rằng, khi thầy Từ ở nhà, chúng tôi không được nghịch ngợm làm ồn, gặp thầy phải lễ phép chào, gọi là thầy. Dù mẹ ân cần dặn dò, song ba anh em tôi vẫn đùa nghịch như cũ, dường như nếu không làm vậy thì không phải là đời sống của những kẻ trưởng thành. Trong ấn tượng của tôi, thầy là người có hành tung bất định, giống như rồng bay lượn, thấy đầu không thấy đuôi, có lúc thầy ở nhà, có lúc mấy ngày không xuất hiện, hoặc giả buổi sáng ở nhà, buổi chiều lại không thấy đâu. Điều này khiến tôi tò mò, cứ muốn đến gần hoặc len lén quan sát từng điều nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày của thầy. Có lần tôi biết hôm nay thầy đang ở trong phòng, bèn nhẹ nhàng đẩy cửa lộ khe hở nhỏ, len lén nhìn vào trong, thầy đang đọc sách, thầy nói: “Đại Dũng đấy à!” Rồi nghiêng đầu ra hiệu cho tôi vào. Sau khi vào phòng và chào thầy, tôi thấy trong phòng bài trí rất đơn giản, sàn nhà trải chiếu tatami kiểu Nhật, chăn gối được xếp gọn gàng trên sàn, có một bàn một ghế, một cái tủ nhỏ đựng đồ, còn thấy được rất nhiều sách ở trong phòng. Thầy sống có kỷ luật, rất nghiêm khắc với chính mình, hiếm khi cùng người nhà tôi dùng bữa, hễ ở nhà là thầy lại miệt mài đọc sách, không ngừng tìm cầu tri thức và khám phá chân lý. Mẹ tôi từng nói với anh em tôi: “Thầy Từ đúng là người có học thức, mang phong thái của cổ nhân.”