/ 195
1

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN

Tập 65

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore

Thời gian: 29/07/1999

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu


“Căng cô tuất quả, kính lão hoài ấu; côn trùng thảo mộc, do bất khả thương” (thương xót con côi, giúp đỡ quả phụ, kính trọng người già, chăm lo trẻ nhỏ; côn trùng cây cỏ, không làm tổn thương), bốn câu này là nói về “hành nhân”. Tiếp theo phía dưới:

Nghi mẫn nhân chi hung, lạc nhân chi thiện.

宜憫人之凶。樂人之善。

Nên thương xót trước việc ác của người, vui mừng với việc thiện của người.

Đây là câu thứ 24, tiếp theo là:

Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy.

濟人之急。救人之危。

Giúp người lúc khẩn cấp, cứu người khi nguy nan.

Đây đều là “hành nghĩa”. Nhân và nghĩa đều là thực tiễn của trung hiếu. Phần trước đã báo cáo qua với qúy vị, “hiếu” chính là điều mà nhà Phật nói về tự tánh, tánh thể, “trung” là đại dụng của tự tánh. Nhà Phật nói về trung đạo, chư Phật Như Lai, pháp thân đại sĩ, đời sống của các ngài, xử sự đối người tiếp vật làm đủ loại thị hiện, đủ loại giáo hóa đều là hành trung, trung là thực tiễn của hiếu, nhân nghĩa là thực tiễn của trung. Đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu rõ, chúng ta học Phật phải học từ đâu thì tự mình rõ ràng, sáng tỏ. Nếu con người không hiểu những đại đạo lý này thì chính là điều mà người xưa nói có khác gì so với cầm thú đâu! Cầm thú là động vật, con người cũng là động vật, chỗ không giống nhau, chỗ khác biệt giữa con người với cầm thú là con người có thể thể hội đại đạo của vũ trụ nhân sinh, hiểu rõ thật tướng các pháp, đây mới gọi là làm người. Những đại đạo lý này chắc chắn không phải sanh ra đã biết, trong lịch sử xưa nay trong và ngoài nước, người sanh ra đã biết thì chưa từng thấy qua, đều là do học mà biết.

Nói về “học” thì thiên bẩm của mỗi người không như nhau, nhà Phật thường nói ba căn “thượng, trung, hạ”. Người thượng căn thì năng lực tiếp nhận mạnh, gọi là nghe một biết mười, một nghe ngàn ngộ, người trung căn thì kém một chút, người hạ căn thì kém hơn một chút nữa. Căn tánh không giống nhau tại sao hình thành? Người thế gian thật sự là người mê, có người nói đây là di truyền. Nếu như nói di truyền thì sao có cha mẹ rất thông minh mà con cái lại ngốc nghếch? Điều này về di truyền thì nói không thông rồi. Có một số cha mẹ không thông minh, rất bình thường mà con cái lại rất thông minh, có thể thấy được cách nói di truyền này cũng rất khó đứng vững. Phật nói rất hay, do tập tánh của mỗi người từ vô lượng kiếp đến nay không giống nhau, cách nói này chúng ta nghe xong có thể tiếp nhận. Con người chắc chắn không phải chỉ có một đời này, nếu như cho rằng con người chỉ có một đời này, đời sau không còn nữa, đây là đoạn kiến. Có người nói, người chết rồi, đời sau vẫn là người, Phật nói đây là thường kiến. Hai loại kiến giải này đều là sai lầm.

Ấn Độ thời xưa có rất nhiều nhà tôn giáo, nhà tôn giáo cổ đại Ấn Độ không có ai không tu thiền định. Chúng ta biết thiền định có thể đột phá các tầng thời gian và không gian; hay nói cách khác, họ có thể nhìn thấy không gian bốn chiều, không gian năm chiều, thậm chí là tầng không gian cao hơn nữa, phạm vi sinh hoạt đó thì lớn, quá lớn! Họ nhìn thấy trời Dục giới, trời Sắc giới; nhìn thấy tình trạng chân thật của lục đạo, cho nên lục đạo luân hồi không phải do Phật giáo nói. Khi Thích-ca Mâu-ni Phật chưa xuất hiện, tất cả tôn giáo của Ấn Độ đều đã nhìn thấy, đều đã chứng thực sự việc này. Tôi đã sống ở Mỹ rất nhiều năm, nước Mỹ cũng có rất nhiều người đã chứng minh sự việc này là thật, họ không phải dùng thiền định, họ dùng phương pháp thôi miên. Thôi miên nói thật ra cũng là thuộc vào một loại của thiền định, chẳng qua là không sâu như thiền định mà thôi; ý chí phải tập trung, nếu ý chí không tập trung thì không thể vào trạng thái thôi miên được, bản thân bạn nghĩ ngợi lung tung thì vị thầy thôi miên đó không có cách gì đối với bạn. Làm thế nào mới có thể nhập vào trạng thái thôi miên? Nghe theo điều khiển của họ, nghe theo lời họ, họ bảo mình làm thế nào thì phải phục tùng 100%, vậy thì rất dễ dàng đi vào trạng thái thôi miên. Vào trạng thái thôi miên thì họ liền biết được đời quá khứ của họ, quá khứ một đời, quá khứ hai đời; người nhập vào sâu có thể đạt đến ba đời, bốn đời, nhưng thông thường nhất là một đời trong đời quá khứ, đây là rất phổ biển. Có thể đạt đến ba đời, bốn đời thì tương đối ít; nếu chúng ta dùng thí dụ của thiền định để nói thì cần định công tầng thứ sâu hơn nữa. Cho nên sự việc này không phải giả.

/ 195