/ 195
1

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN

Tập 48

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore

Thời gian: 05/07/1999

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu


Chư vị đồng học, chào mọi người! Nhà Phật nói về tu hành, định nghĩa của hai chữ này chúng ta nhất định phải làm cho rõ ràng, tu hành chính là tu sửa hành vi sai lầm của chúng ta. Hành vi thì rất nhiều, Phật đem nó quy nạp thành ba loại lớn là “thân, khẩu, ý”, hành vi có nhiều đi nữa cũng không thể vượt qua ba phạm vi này; hành vi của thân chính là động tác cử chỉ của chúng ta, hành vi của khẩu là lời nói, hành vi của ý là tư tưởng, kiến giải. Hành vi đã có sai lầm, đem sai lầm tu sửa trở lại thì gọi là tu hành, đây là phải hiểu cho thật rõ ràng, thật tường tận. Tổ sư đại đức dạy chúng ta tu hành phải “tu từ căn bản”, cái gì là căn bản? Ý niệm là căn bản, tư tưởng là căn bản. Cho nên, tu từ căn bản cũng tức là nói rõ hành vi cho dù có nhiều hơn đi nữa thì cũng đều phát sinh từ tư tưởng, tư tưởng thuần chánh thì tất cả đều thuần chánh, tư tưởng tà lệch thì tất cả đều bất chánh. Đây là ý nghĩa của việc khuyên chúng ta tu từ căn bản.

Thế nhưng cách nói này nói được cạn, ý nghĩa chân thật của căn bản này là gì, chúng ta nhất định phải biết, đó chính là “xứng tánh khởi tu, toàn tu tại tánh”, đây mới là thật sự tìm ra được căn bản. Tu tánh, tánh là căn bản của tâm; tánh là thể, tâm là tác dụng. Ở trong Phật pháp Đại thừa thường gọi tâm là thức, thức tâm hay tâm thức, đây là tác dụng của nhất niệm tự tánh, khi đang mê, phàm phu gọi nó là tám thức, năm mươi mốt tâm sở. Do đây có thể biết, tác dụng của nó tuy tương đối phức tạp. Nhưng mà thể của nó là một, là nhất niệm tự tánh, thập pháp giới y chánh trang nghiêm chính là từ gốc này sinh ra. Hoa Nghiêm nói rất hay: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, hiện tượng của thập pháp giới là tâm tánh, hiện tượng thiên biến vạn hóa. Sự biến hóa này từ đâu mà có vậy? Do thức biến, “thức” chính là ý niệm, chính là tư tưởng, chính là kiến giải. Phật nói cho chúng ta biết, thiên biến vạn hóa của thập pháp giới là sinh ra từ tư tưởng, ý niệm của chúng ta, đây mới là căn nguyên, người tu hành phải bắt tay từ chỗ này.

Căn nguyên này chính là “trung hiếu” mà chúng tôi giảng mấy ngày nay. Hôm qua bàn với quý vị về “thuận thân, dưỡng chí”, ý nghĩa thì nói được sâu. Hiếu nhất định phải thuận, không thuận thì không gọi là hiếu, cho nên “hiếu thuận” là đi cùng với nhau. Phải thuận như thế nào mới được xem là hiếu chân thật vậy? Phải thuận tánh, đây mới là chân thật biết hiếu, nhận thức hiếu. Điều mà trong Phật pháp Đại thừa nói “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, tùy thuận Phật tánh mới là đại hiếu, mới là chân hiếu. Cha mẹ của chúng ta có Phật tánh, chúng ta tùy thuận Phật tánh của cha mẹ mà tận hiếu, không phải tùy thuận phiền não. Cha mẹ cũng là phàm phu, họ có phiền não, chúng ta không thể tùy thuận theo phiền não của họ, mà là tùy thuận Phật tánh của họ, ý nghĩa này chúng ta phải thể hội cho được. Giúp đỡ cha mẹ làm Phật, giúp đỡ cha mẹ giác ngộ, đây mới được xem là tận hiếu. Do đây có thể biết, nếu chúng ta muốn giúp đỡ cha mẹ giác ngộ mà bản thân không giác ngộ thì bạn làm sao có thể giúp đỡ được? Cho nên tận hiếu, hành hiếu, chúng ta liền biết được trước tiên phải chính mình giác ngộ, phải chính mình thành tựu, vậy mới có thể giúp đỡ người khác, giúp đỡ người khác, đối tượng đầu tiên là cha mẹ. Chữ “hiếu” này chính là nhất niệm tự tánh mà Phật nói trong kinh; chữ “trung” này chính là Phật hạnh, Bồ-tát hạnh, phát tâm Bồ-đề, hành đạo Bồ-tát chính là tận trung. Đây là cách giảng sâu hơn một bậc của hai chữ này, là ý nghĩa chân thật của hai chữ này.

Ý nghĩa chân thật này nhà Nho có nói đến hay không? Có nói, nhưng không nói nhiều. Vì sao không nói nhiều vậy? Vì nói người ta nghe không hiểu, cho nên không chịu nói sâu, chỉ nói cạn mà thôi, dạy người sơ học. Trong Phật pháp thì nói nhiều về nền tảng của tu học Phật pháp, khi so sánh thì sâu dày hơn nhiều, thời gian tu học Phật pháp cũng tương đối dài hơn. Đặc biệt là chú trọng ở “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, hai câu tám chữ này vô cùng quan trọng, chúng ta có thể có thành tựu hay không, mấu chốt chính ở chỗ này. Tu học Phật pháp thì điều kiêng kỵ nhất là tạp tu, trong sáu ba-la-mật nói về tinh tấn ba-la-mật, thế nào là tinh tấn? Tinh là thuần mà không tạp, tạp thì không tinh; một môn là tinh tấn, hai môn thì không phải tinh tấn. Niệm Phật, qúy vị phải biết, niệm Phật thật sự thành tựu cũng là nhất môn thâm nhập. Bồ-tát Đại Thế Chí dạy chúng ta phương pháp niệm Phật là “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Thế nào gọi là tịnh niệm? Chúng ta đối với Tây Phương Tịnh Độ, đối với A-di-đà Phật không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn; không hoài nghi, không xen tạp thì gọi là tịnh niệm, không gián đoạn chính là tiếp nối. Tịnh niệm tiếp nối vậy thì mới có thể thu nhiếp sáu căn, vãng sanh phẩm vị mới cao.

/ 195