THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Tập 40
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore
Thời gian: 27/06/1999
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Chư vị đồng học, chào mọi người. Câu thứ 19 trong Cảm Ứng Thiên Vựng Biên là hai chữ “trung hiếu”. Hai chữ này thực ra là căn bản của cảm ứng đức hạnh. Trong chú giải là đoạn phong phú nhất trong toàn văn, bản chú giải mà tôi dùng và bản mọi người dùng là không giống nhau. Bản chú giải này của tôi tổng cộng có 17 tờ, mỗi tờ có 2 trang, có thể thấy được cổ đức rất xem trọng hai chữ này. “Trung hiếu”, hiếu là căn bản của thành kính. Phật pháp được xây dựng trên hiếu đạo. Trung Quốc từ xưa đến nay, giáo học của nhà Nho cũng là lấy “trung hiếu” làm trung tâm, cho nên được giáo dục. Thế nào là giáo dục? Chỉ là trung hiếu mà thôi, đây là điều mà chúng ta không thể không biết, tức là phải học trung, phải tận hiếu. Cổ nhân dạy chúng ta: “Làm tôi tận trung, làm con tận hiếu, đây là đạo thường của thiên lý, cội nguồn của nhân luân”, mở đầu chú giải liền nói bốn câu này. “Làm tôi tận trung”, câu này phải dùng ngôn ngữ hiện nay để giải thích; Phật dạy “y nghĩa bất y ngữ”, câu nói này rất hay, bạn phải hiểu được ý nghĩa của nó, bởi vì ngôn ngữ thì thay đổi theo thời đại, còn ý nghĩa là nguyên tắc, là cương lĩnh, vĩnh viễn không thay đổi. Trước đây vào thời đại đế vương, “làm tôi tận trung” là bề tôi đối với vua thì phải tận trung, dùng lời hiện nay mà nói chính là người bị lãnh đạo đối với người lãnh đạo phải biết tận trung. Từ ý này mà nói rộng ra tức là phục vụ cho tất cả nhân dân phải tận trung, như vậy quý vị dễ hiểu hơn. Chúng ta phục vụ, phục vụ có đối tượng, đối tượng là người nào? Đối tượng là nhân dân. Chúng ta phục vụ cho nhân dân, phục vụ cho chúng sanh, phải biết tận trung. “Làm con tận hiếu”, câu nói này thì dễ hiểu. Tận trung là dựa vào tận hiếu làm căn bản, nếu như một người không biết hiếu thì họ làm sao có thể tận trung? Hiếu là đạo thường của thiên lý, là cội nguồn của nhân luân, trung là đại đạo lý của làm người.
Bạn xem văn tự của Trung Quốc, chữ “trung” (忠) này là gồm chữ “trung” (中) và chữ “tâm” (心), tức là tâm của bạn phải chánh, phải ở giữa, không được lệch, không được tà. Cổ nhân giải thích “thành kính” cho chúng ta, thành kính là tướng mạo, “một niệm không sanh gọi là thành”. Do đây chúng ta thể hội được tâm trung chính là nhất tâm, nhị tâm là bất trung, nhị tâm thì tâm của bạn đã lệch. Tâm trung là một niệm không sanh, sanh một niệm thì bất trung. Do đây có thể biết, chữ trung này là thành kính đến cực điểm, chân thành cung kính đến cực điểm mới gọi là trung. Giáo học của nhà Nho, giáo học của nhà Phật chính là dạy điều này, đây là đạo thường của thiên lý. Đạo thường là đạo thường hằng, là vĩnh hằng bất biến, trong Phật pháp gọi là “đạo thường của pháp tánh”, “pháp vốn như vậy”. Người có thể tuân theo đạo thường thì người này gọi là Phật, gọi là Bồ-tát; đánh mất đạo thường, trái ngược đạo thường thì người này được gọi là chúng sanh, gọi là phàm phu. Có thể thấy phàm thánh là khác biệt từ chỗ một niệm này. Cội nguồn của nhân luân là căn bản làm người; hay nói cách khác, không còn hai chữ trung hiếu này nữa thì căn bản của nhân luân liền mất đi. Vẫn có hình tướng của con người, hình dáng của con người, nhưng trên thực tế có phải là người hay không? Không phải là người, chỉ là hình dáng con người mà thôi.
Đại sư Thiên Thai giảng kinh Pháp Hoa đã đem mười pháp giới triển khai thành “bách giới thiên như”. “Trăm giới” từ đâu mà có? Trong mỗi một pháp giới đều có mười pháp giới. Thí dụ chúng ta là pháp giới người, trong pháp giới người này có Phật ở trong đó. Ai là Phật trong cõi người? Hai chữ trung hiếu này làm được rất viên mãn, không có mảy may khiếm khuyết, đây chính là Phật trong cõi người. Bồ-tát trong cõi người thì hai chữ trung hiếu này làm được năm phần trở lên, chưa có viên mãn thì đây là Bồ-tát trong cõi người, Duyên giác trong cõi người, Thanh văn trong cõi người. Hai chữ trung hiếu có thể làm được một, hai phần, đó mới là người trong cõi người, mới được xem là con người. Có thể làm được bốn, năm phần thì là người trời trong cõi người. Nếu như không làm được, làm trái ngược thì là súc sanh trong cõi người, ngạ quỷ trong cõi người. Hoàn toàn trái ngược, đại nghịch bất đạo là địa ngục trong cõi người. Mỗi pháp giới đều có đủ mười pháp giới, cho nên gọi là một trăm pháp giới, trong mỗi giới đều đầy đủ “mười như thị”, cho nên gọi là “bách giới thiên như”. “Bách giới thiên như” nói cho chúng ta biết một nguyên tắc, nói cho chúng ta biết chân tướng sự thật. Triển khai tiếp như vậy, trong một trăm giới, trong mỗi một giới lại có mười pháp giới, gọi là ngàn pháp giới, cho nên pháp giới là vô lượng vô biên. Pháp giới từ đâu mà có? Là từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta biến hiện ra, vô lượng vô biên pháp giới, biến ảo vô cùng. Nhưng trong biến ảo này có một nguyên tắc bất biến, nguyên tắc này chính là trung hiếu. Cho nên trong Cảm Ứng Thiên, hai chữ “trung hiếu” này trong chú giải chiếm độ dài lớn như vậy, đây là sự từ bi yêu thương của đại đức xưa, chỉ sợ chúng ta đối với hai chữ này nhận thức không rõ ràng. Học vấn của thế xuất thế gian có thể thành tựu hay không, mấu chốt là ở hai chữ này; tu hành có thể chứng quả hay không, mấu chốt cũng ở hai chữ này, bạn nói điều này quan trọng biết bao!