/ 195
1

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN

Tập 26

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore

Thời gian: 13/06/1999

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu


Chư vị đồng học, chào mọi người. Mời xem đoạn thứ 16 của Cảm Ứng Thiên, chúng ta hoàn toàn y theo sự phân chia đoạn của Vựng Biên, đoạn này có hai câu:

Bất lý tà kính, bất khi ám thất.

不履邪徑。不欺暗室。

Không làm những việc tà vạy, không lừa dối nơi phòng tối.

Phía trước đã nói đoạn này là nói về phước báo, trong toàn văn là đoạn thứ ba. “Thị đạo tắc tiến, phi đạo tắc thoái” (hợp đạo thì mau chóng đi làm, trái đạo thì lập tức tránh xa), hai câu này là tổng cương lĩnh. “Bất lý tà kính, bất khi ám thất”, từ đây trở đi là nói về tu tích, nhà Phật chúng ta gọi là tu hành. Quan trọng nhất của việc tu hành là tâm địa chân thành, hai câu này chính là dạy chúng ta thành ý, chính là bắt đầu tu từ căn bản. “Lý” là nói về việc làm của thân và ý niệm khởi lên, khởi tâm động niệm, động tác thân thể chính là lý. “Tà kính”, “tà” là nói đối với chánh, hay nói cách khác, là tà tri tà kiến, tà ngôn tà hạnh; tà kính là chỉ cho sự việc này, cũng chính là nói ba nghiệp đã trái ngược với chánh lý, đây gọi là tà. “Khi”, ý nghĩa chữ này là biết rõ mà cố phạm, đây gọi là khi; lừa gạt chính mình, lừa gạt người khác. “Ám thất” là chỗ mà người khác không nhìn thấy, cũng là ranh giới bắt đầu phân chia thiện ác. Đoạn ác tu thiện phải dụng công ở chỗ này, đó mới là chân thật tu hành, hai câu này chính là thực tiễn của chân thành, hình mẫu của chân thành. Chính chúng ta phải phản tỉnh kiểm điểm, chính mình đã làm được chân thành hay chưa? Dùng tám chữ này thì có thể kiểm tra ra được chúng ta rốt cuộc có chân thành hay không? Cho nên hai câu tám chữ này nói được rất tinh vi, tinh tế.

“Bất lý tà kính”, cũng chính là những gì mà Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọ: “Đoan tâm, đoan ý, đoan thân”, ý đoan chánh. Người thế gian gọi là “đường đường chính chính”, người Trung Quốc xưa có kỳ vọng đối với người đọc sách là “quang minh chính đại”, “đường đường quân tử”. Do đây có thể biết, nhà Nho nói tiêu chuẩn của quân tử thì phải làm được hai câu này. Giáo học của nhà Nho về mặt thành tích cũng là ba cấp bậc: quân tử, hiền nhân và thánh nhân, đây cũng là mục tiêu của giáo học. Cho nên nói “đọc sách chí tại thánh hiền”, làm thánh, làm hiền. Quân tử là nền tảng của thánh hiền, nếu muốn làm bậc thánh hiền thì phải làm được tám chữ này. Phật pháp nói được rõ ràng hơn, giáo học của Phật pháp, sự thành tựu cũng phân làm ba bậc: A-la-hán, Bồ-tát và Phật. A-la-hán thì giống như nhà Nho gọi là quân tử, Bồ-tát là hiền nhân, Phật là thánh nhân.

Tuy thành tích ba giai đoạn giống nhau nhưng trên thực tế cao thấp khác biệt rất lớn. Giáo học của nhà Nho là giáo dục một đời, bắt đầu từ thai giáo, đến sau cùng là già chết, “cẩn trọng lo tang lễ, tưởng nhớ đến tổ tiên”. Thế nhưng giáo học của Phật pháp là ba đời, có đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai, về mặt không gian mà nói là tận hư không khắp pháp giới. Đây là chỗ nội dung mà giáo học của nhà Nho không sánh bằng, cho nên giáo học của Phật pháp nói được rất tường tận, rất thỏa đáng. Sau khi hiểu rõ thì biết làm một người thiện, làm một người tốt là việc chúng ta nên làm, không nên làm người ác, không nên làm người bất thiện, giúp đỡ mọi người cùng thiện là việc vui mừng biết bao. Chúng ta mong cầu cả nhà thiện, cả nước thiện, cả thế giới này đều thiện, bạn có cái tâm nguyện này, có loại hành trì này thì tương ưng với Phật đạo. Đương nhiên chỗ này nói “tà kính”, “ám thất”, bạn đích thực đều có thể làm được “bất lý”, “bất khi”.

Người thế gian trong quá khứ đều biết cầu phước cho con cháu, người hiện nay thì ít rồi. Người hiện nay thật ra mà nói đều chỉ quan tâm đến bản thân, có thể quan tâm đến cả nhà, quan tâm đến vợ con thì kể ra đã là không tệ. Thế nhưng người làm con cái mà có thể quan tâm đến cha mẹ thì ít; thật ra mà nói là thấy không nhiều. Đây chính là điều mà nhà Nho nói: “Nhà không ra nhà, nước không ra nước.” Nhà là gốc rễ của nước, là kết hợp của ân nghĩa, quan tâm đến nhau, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đó mới là có ân, có nghĩa. Nếu như chỉ quan tâm đến bản thân, tự tư tự lợi thì ân nghĩa đã không còn. Ân nghĩa đương nhiên là thiên tánh nhưng cũng cần phải được vun bồi về sau; nếu như hoàn cảnh sau này bất lợi, ân nghĩa sẽ bị lợi dục che lấp; thế là con người chỉ biết tranh danh đoạt lợi, hành vi việc làm đều là vong ân bội nghĩa. Vậy thì tất cả tạo tác, khởi tâm động niệm của họ chính là “lý tà kính, khi ám thất” mà chỗ này nói, họ không phải là bất lý, bất khi.

/ 195