THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Tập 24
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore
Thời gian: 11/06/1999
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Chư vị đồng học, chào mọi người! Hôm qua chúng ta học đến câu thứ 14: “Kỳ quá đại tiểu, hữu sổ bách sự, dục cầu trường sanh giả, tiên tu tị chi.” (Tội lỗi lớn nhỏ có mấy trăm loại, muốn cầu sống lâu, trước hết phải tránh xa tội lỗi.)
Tội lỗi lớn nhỏ có mấy trăm loại, chữ “sự” trong kinh văn là chủng loại, ở trong mỗi một loại thật ra mà nói đều là vô lượng vô biên. Cổ đức nói “phi nghĩa nhi động” chính là lỗi. “Nghĩa” là nên, nếu tư tưởng hành vi của bạn đều là không nên thì đó chính là lỗi lầm. Lỗi lầm có lớn nhỏ; lớn chính là tội nghiệt, nhỏ thì gọi là lỗi lầm. Thiên địa quỷ thần đều nhìn thấy tội lỗi, chư Phật Bồ-tát nhìn thấy càng rõ ràng hơn. Thật ra mà nói, điều mà thiên địa quỷ thần nhìn thấy, chúng ta thường nói đó là chuyện đương nhiên. Chư Phật Bồ-tát còn có thể nhìn thấy được lý vì sao như vậy: vì sao bạn mê hoặc, vì sao bạn tạo nghiệp, vì sao bạn thọ báo?
Tại sao nói chư Phật Bồ-tát có thể nhìn thấy được lý vì sao như vậy? Mọi người đã đọc qua kinh Vô Lượng Thọ, người thế giới Cực Lạc, cho dù là vừa mới vãng sanh hạ phẩm hạ sanh, năng lực của họ đều là thiên nhãn nhìn thấu, thiên nhĩ nghe suốt, tha tâm đều biết; hay nói cách khác đối với cá nhân bạn, đời đời kiếp kiếp trong đời quá khứ của bạn, họ đều biết rõ những tình trạng đó. Cho nên họ biết đạo lý vì sao như vậy, tích tập ác nghiệp trong nhiều kiếp, nhiều kiếp đã dưỡng thành thói quen ác, tập khí ác, không dễ gì sửa đổi. Chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng, thế gian có một số người bất thiện, tập khí nghiệp chướng rất nặng, là từ đường ác trong đời trước sanh đến nên còn mang theo tập khí tàn dư của đường ác, những đạo lý này thì thiên địa quỷ thần chưa chắc có thể nhìn thấy rõ ràng. Khả năng của A-la-hán có thể nhìn thấy 500 đời của một người, 500 đời trước họ có thể nhìn thấy, nhưng từ 500 đời trước trở lên nữa thì họ không nhìn thấy được. Cho nên nhất định phải hiểu rõ triệt để thì thuyết pháp mới có thể khế cơ, mới biết dùng pháp phương tiện gì để giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn này. Điều mà Cảm Ứng Thiên nói ở chỗ này cũng là một nguyên tắc, nguyên tắc là điều có tính phổ biến, chỉ cần mọi người có thể tuân thủ thì chắc chắn được lợi ích.
Trong quá khứ, tam giáo Nho Thích Đạo ở Trung Quốc đều tham gia vào công tác giáo dục xã hội, cũng đều mang tư tưởng đa nguyên văn hóa nhất thể, đối với xã hội Trung Quốc có cống hiến rất lớn. Tam giáo tuy có khác biệt nhưng cũng có chỗ tương đồng của nó, đó chính là bất luận tu học theo pháp môn của đạo nào thì nhất định phải lấy “tích đức” làm gốc, đây là điều mà tam giáo công nhận. Bắt đầu tích đức từ đâu vậy? Từ trên tâm địa hạ công phu, tâm địa nhất định phải quang minh chính đại. Nhà Phật nói siêu phàm nhập thánh, “phàm” là gì? Phàm là phàm tình, ngày nay chúng ta gọi là cảm xúc, cảm xúc này là phàm tình. Cũng chính là nói cảm xúc đang làm việc, làm việc theo cảm xúc thì sẽ có lỗi lầm, chúng ta thường nói làm việc theo cảm tình. Có thể đem tình chấp buông xuống, bỏ đi thì người này chính là thánh, thánh chính là người sáng tỏ, người giác ngộ, định nghĩa của thánh là như vậy. Cho nên làm thánh chính là làm người sáng tỏ, làm người giác ngộ. Nếu như không đem tình chấp chuyển đổi thành trí tuệ thì bạn không làm thánh được; hay nói cách khác, bạn vĩnh viễn sẽ không sáng tỏ, vĩnh viễn sẽ không giác ngộ.
Tình chấp phát sinh từ đâu vậy? Phật pháp nói từ trên lý, phát sinh từ trong phân biệt, chấp trước bốn tướng. Bốn tướng chính là tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, bạn phân biệt bốn tướng này, chấp trước bốn tướng này, đây là nguồn gốc của tình chấp. Bởi vì bạn phân biệt, chấp trước cho nên bạn mới có tự tư tự lợi, bạn mới có đúng sai, ta người, bạn mới có tham sân si mạn; không những ngôn hạnh của bạn tạo nghiệp mà khởi tâm động niệm cũng tạo nghiệp. Phần trước đã nói sơ lược điều này với quý vị, khởi tâm động niệm là ý ác, tâm bạn ác, tâm không tốt. Phật Bồ-tát đã giác ngộ, đã sáng tỏ, người giác ngộ không có ta, không có chính mình, cho nên mới có thể thật sự tôn kính người khác. Người sáng tỏ mới có thể làm được, nhà Nho cũng là như vậy, sau khi sáng tỏ rồi mới biết “hạ mình mà tôn người”, chính mình khiêm tốn hạ thấp mà tôn trọng người khác. Chỉ có người mê hoặc mới tự cao tự đại, tự mình ngẩng rất cao, không hề xem người khác ra gì, không chịu được oan ức. Vừa bị một chút oan ức đã ôm hận trong lòng, niệm niệm không quên, nên chiêu cảm quả báo không như ý. Mọi người đều biết sân giận đọa địa ngục. Cho nên Phật Bồ-tát vì sao không trụ trong lục đạo, vì sao không trụ trong thập pháp giới? Thị hiện ở trong lục đạo nhưng các ngài vẫn là trụ ở nhất chân pháp giới, đạo lý ở đâu vậy? Vì không có ta, không có ta thì mới có thể hạ mình. Người giác ngộ ở chỗ thấp hèn họ vẫn vui vẻ, tự tại, chỉ có người mê hoặc mới tỏ vẻ hơn người. Quí vị hãy tỉ mỉ mà tư duy, lắng lòng mà thể hội về đạo lý này thì thọ dụng vô cùng.