/ 195
1

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN

Tập 189

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore

Thời gian: Năm 2000

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu


Chư vị đồng học, chào mọi người! Ở đây có ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất, người hỏi vấn đề này không có viết tên, người này hỏi về pháp môn bổn nguyện. Tôi đọc qua câu hỏi: “Hiện nay ở khu Triều Dương của Bắc Kinh, đa số mọi người đều đang tu pháp môn bổn nguyện, đồng thời nói niệm Phật nhất định phải niệm sáu chữ thì mới có thể vãng sanh, bốn chữ thì không được. Hơn nữa pháp môn bổn nguyện là dựa vào tha lực, không phải dựa vào tự lực, cách tu như vậy có phải như pháp hay không?”

Pháp môn bổn nguyện là người Nhật Bản đề xướng, ở Đài Loan cũng rất thịnh hành. Pháp môn này không phải do người cận đại phát minh, cổ đại đức cũng là dựa vào nguyện thứ 18 của kinh Vô Lượng Thọ, là đại nguyện căn bản cho chuyên tu chuyên hoằng. Chúng ta đã đọc kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần, tôi cũng đã giảng 11 lần, 48 nguyện của A-di-đà Phật, mỗi một nguyện đều bao gồm 47 nguyện còn lại, nguyện nguyện như vậy, quyết không phải là mỗi nguyện là độc lập, điểm này quý vị đồng học nhất định phải biết. Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp viên mãn 47 nguyện kia, cho nên mới gọi là bổn nguyện, nhất định không phải là chỉ có nguyện thứ 18, còn những nguyện khác thì không cần. Nếu như chỉ có nguyện thứ 18, những nguyện khác đều không cần thì e rằng không thể vãng sanh. Nguyên nhân là gì? Nguyện thứ 18 là chuyên niệm, không có nói phát tâm Bồ-đề, nguyện thứ 19 là phát tâm Bồ-đề. Bạn hãy xem trong ba bậc vãng sanh nói với chúng ta: “Phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm” thì mới có thể vãng sanh. Nếu như không phát tâm Bồ-đề, chỉ nhất tâm chuyên niệm thì cũng không thể vãng sanh; nếu như nói nhất định phải niệm sáu chữ, niệm bốn chữ không được, thì những lời này không đáng tin. Vì sao vậy? Tổ sư đời thứ tám của Tịnh độ tông Trung Quốc là đại sư Liên Trì, đây là người Trung Quốc chúng ta, không những là Tịnh tông mà Tông môn hay Giáo hạ khi nhắc đến đại sư Liên Trì thì đâu có ai không tôn kính?

Đại sư Liên Trì niệm Phật là niệm bốn chữ, có người thỉnh giáo với lão nhân gia ngài: “Khi ngài dạy người ta niệm Phật là cách niệm như thế nào?” Ngài nói: “Tôi dạy người ta niệm Phật là niệm sáu chữ.” Vậy còn bản thân ngài niệm như thế nào? Ngài nói: “Bản thân tôi niệm bốn chữ.” Vì sao vậy? Ngài liền nói: “Tôi đời này nhất định phải cầu sanh Tịnh độ.” Bởi vì trong kinh điển nói chấp trì danh hiệu, mà danh hiệu này chỉ có bốn chữ. “A-di-đà Phật” là danh hiệu. “Nam-mô” nghĩa là quy y, nghĩa là cung kính, là lời nói khách sáo, tôi nhất định phải cầu vãng sanh nên lời khách sáo đều miễn hết. Vậy vì sao lại dạy người ta niệm sáu chữ? Người khác chưa chắc có tâm cầu vãng sanh, nên thêm sự quy y, thêm sự cung kính, tốt, kết cái duyên với A-di-đà Phật, là ý như vậy. Việc này nói rõ, nếu bạn chân thật hạ quyết tâm, đời này nhất định phải đi thì lời khách sáo đều không cần phải nói nữa. Bốn chữ này là chấp trì danh hiệu, trên danh hiệu không có thêm hai chữ “Nam-mô”, ý nghĩa này nhất định phải hiểu. Cho nên nói sáu chữ mới có thể vãng sanh, còn bốn chữ không được, vậy câu nói này là hoàn toàn sai lầm, trên thực tế sáu chữ có thể vãng sanh, vậy thì bốn chữ càng có thể vãng sanh. Bạn muốn hỏi nguyên nhân vì sao thì Đại sư Liên Trì nói, đến lúc lâm chung càng đơn giản càng có hiệu quả. Niệm bốn chữ thì đơn giản hơn niệm sáu chữ, mấu chốt của vãng sanh là ở một hơi thở sau cùng, niệm sau cùng là A-di-đà Phật thì người này nhất định vãng sanh. Một niệm sau cùng nếu để vuột mất thì đời này uổng phí rồi, vậy đành phải đợi cơ hội lần sau, đạo lý này nhất định phải hiểu.

Kinh không thể không đọc, không thể không giải, không những phải giải, bạn xem trong kinh Đại thừa thì Phật thường nói với chúng ta phải “giải sâu nghĩa thú”, phải giải được sâu, phải giải được thấu triệt thì nghi hoặc của bạn liền đoạn ngay, đoạn nghi sanh tín, như vậy mới có thể vãng sanh. Tịnh tông dựa vào tha lực nhưng cũng phải dựa vào tự lực, không phải hoàn toàn dựa vào tha lực, nếu hoàn toàn dựa vào tha lực thì câu Phật hiệu ấy cũng đâu cần phải niệm. Chúng ta niệm câu Phật hiệu này là tự lực, tự mình phát nguyện tu học như lý như Pháp, đây là dựa vào tự lực. Tự lực của chúng ta không có năng lực đoạn phiền não, đây là thật, nhưng mà tự lực thì nhất định phải phục phiền não. Cái gì là phiền não? Nghi hoặc chính là phiền não. Chúng ta thường nói tự tư tự lợi, tham sân si mạn, danh văn lợi dưỡng, đây đều là phiền não, chúng ta dùng câu Phật hiệu này để chế phục phiền não. Phiền não đích thực là chưa đoạn, thế nhưng công phu này có thể chế phục được, nó không khởi tác dụng, cho nên không khởi hiện hành, vậy thì lúc lâm chung mới có thể khởi được tác dụng cảm ứng đạo giao với A-di-đà Phật, Phật đến tiếp dẫn. Đây gọi là mang nghiệp vãng sanh, cho nên kinh luận không thể không học tập, ý nghĩa của bổn nguyện phải hiểu cho rõ ràng.

/ 195