THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Tập 119
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Tịnh tông Học hội Singapore
Thời gian: 30/10/1999
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Chư vị đồng học, chào mọi người! Mời xem đoạn thứ 57 của Cảm Ứng Thiên:
Tri quá bất cải, tri thiện bất vi.
知過不改。知善不為。
Biết lỗi không thể sửa, biết thiện không chịu làm.
Đây là đoạn thứ ba trong phần ác báo. Trong đoạn này, từ câu này đến câu thứ 60, từ 57 đến 60, đến câu “xâm lăng đạo đức”. Tôi đọc đoạn kinh văn này, cảm khái vô cùng sâu; sau khi đọc xong, tỉ mỉ suy ngẫm lại thì kinh cũng không thể giảng nữa. Công phu của thánh hiền không có gì khác ngoài việc sửa lỗi. Trong chú giải nói rất hay, vừa mở đầu nói: “Văn-thù Bồ-tát bạch Phật rằng: tuổi trẻ tạo tội, về già tu hành thì có thể thành Phật không? Phật đáp: Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ.” Quay đầu chính là sửa lỗi. Thiền sư Viên Ngộ nói: “Là người, ai mà không có lỗi, lỗi mà có thể sửa, có thiện nào lớn hơn! Bậc quân tử có thể sửa lỗi hướng thiện, đức hạnh ngày thêm tốt đẹp.” Thế nào là quân tử? Ở trong Phật pháp, người chân thật phát tâm tu hành, người này chính là quân tử. Tu học Phật pháp có ba giai đoạn, trong “lục tức Phật” mà nhà Thiên thai nói đến thì “danh tự vị” là chưa thể sửa lỗi, hữu danh vô thực, nhất định chưa chịu sửa sai hướng thiện, người như vậy là giả học Phật, không phải là thật học Phật. “Quán hạnh vị” là thật học Phật, quán hạnh vị là thực hành, làm theo lời Phật-đà dạy bảo, y giáo phụng hành, đây là quán hạnh vị. Chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh, phải làm đến được quán hạnh vị thì mới nắm chắc vãng sanh, sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu là “tương tự vị” thì bạn sẽ sanh cõi Phương Tiện Hữu Dư; “phần chứng vị” thì sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Cho nên phải sửa, biết sai chính là giác ngộ, người này giác ngộ rồi; sửa sai chính là dụng công, công phu được thực hành rồi.
Tôi đọc đến mà cảm thấy rất buồn, vừa rồi tôi có nói không muốn giảng kinh nữa, tôi chỉ muốn về sống nơi lều tranh mà bế quan tịnh tu. Vì sao vậy? Người theo tôi học đều không biết sửa lỗi, không biết thay đổi, vậy thì tôi giảng kinh thuyết pháp hoàn toàn thất bại. Tôi hiểu rõ, tôi rõ ràng, tại vì sao vẫn còn mặt dày ở đây giảng như vậy? Người không có cơ duyên thân cận với tôi, có không ít người muốn học, chúng tôi tận dụng mạng Internet, tận dụng băng ghi hình để truyền bá, tặng cho những người chân thật có tâm muốn học, vì họ cho nên tôi đành mặt dày ở đây làm tiếp, không sợ người khác chê cười. Từ xưa tới nay, chỉ có hiếu học mới xứng đáng với thầy, mà cả đời người thầy có thể thu nhận được vài người học trò thì quả thật khó! Người hiện nay hiểu được chân tướng sự thật, cho nên cũng có thể lượng thứ cho tôi, không còn sỉ nhục tôi nữa.
Trước đây, tôi ở nhiều nơi trên thế giới, nói dễ nghe một chút là làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, chính mình luôn cảm thấy vô cùng cô độc, vô cùng vất vả, không có bạn chí đồng đạo hợp. Cho nên mỗi lần trở về Đài Loan, tôi nhất định phải đi thăm thầy, tôi luôn khuyến thỉnh thầy, hy vọng thầy có thể bồi dưỡng thêm vài học trò nữa, chúng tôi ở hải ngoại cũng có thêm trợ thủ. Thầy cũng cảm thán, đúng vậy, trong bao nhiêu năm nay, mỗi lần gặp thầy là tôi đều nói vấn đề này, đại khái là nói bảy, tám lần rồi. Cuối cùng thầy nói với tôi: “Tôi không phải không bồi dưỡng học trò, anh tìm giúp tôi học trò.” Từ đó về sau, tôi không dám nhắc lại nữa, vì sao vậy? Tôi không tìm được học trò, tôi mới hiểu được thầy, thầy không phải không dạy, mà không có người học, học thì phải thật sự nghe lời, thật sự y giáo phụng hành. Bằng mặt không bằng lòng, chúng ta còn làm những chuyện lừa gạt thầy của mình, thầy có biết hay không? Biết chứ, rất rõ. Người nghe thầy Lý giảng kinh, ở Đài Loan vượt hơn 500.000 người, thường tùy chúng ở bên cạnh thầy thường có hơn 20 người, từ sớm đến tối không rời thầy nửa bước. Hai mươi mấy người này, người nào thật học, người nào giả học, trong lòng thầy đều rất rõ ràng, đều rất tường tận. Thầy biết, tôi cũng biết. Thầy Lý Bỉnh Nam ở Đài Trung, nửa đời còn lại đều cống hiến ở bên đó, người chân thật theo thầy học có mấy người? Chỉ có ba người mà thôi, thầy cũng đã cảm thấy an ủi lắm rồi.
Về sau tôi đến Bắc Kinh ghé thăm Hoàng Niệm lão, lúc tôi ở Mỹ có liên hệ được với ông, khi đó tôi là hội trưởng “Hội Phật giáo nước Mỹ”, mang danh hội trưởng. Đồng tu bên đó rất tôn trọng tôi, nói rằng họ muốn mời một vị thượng sư Mật tông đến nơi đó để truyền pháp, muốn bàn bạc với tôi. Tôi không đồng ý, tôi nói chúng ta là tổ tổ tương truyền, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, không nên làm những cái khác nữa. Sau đó tôi hỏi họ, vị thượng sư này từ đâu tới? Họ nói từ Bắc Kinh. Tôi liền hỏi tên của vị ấy. Họ nói là “Hoàng Niệm Tổ.” Tôi vừa nghe đến tên Hoàng Niệm Tổ, tôi có ấn tượng rất sâu với tên của vị này, trước đây thầy Lý đã từng nhắc qua với chúng tôi. Tôi liền hỏi một câu, tôi hỏi: “Có phải là cháu ngoại của ngài Mai Quang Hy phải không?” Họ nói: “Đúng vậy”, tôi nói: “Vậy thì mời ông ấy đến đây.” Mai Quang Hy là thầy của cư sĩ Lý Bỉnh Nam, vậy chúng tôi là đồng môn, đồng môn thì bất luận giảng pháp môn nào thì sẽ không đi sai đường, không chỉ sai đường. Chúng tôi không phải là bài xích pháp môn nào, mà chúng tôi sợ làm loạn pháp môn mà mình đang tu học, đây là chúng tôi cùng sư thừa, ông là truyền nhân của ngài Hạ Liên Cư, cháu của đại sư Mai Quang Hy. Tôi nói, người này tuy chưa từng gặp qua nhưng tri kiến nhất định không sai lầm, tôi hoan nghênh ông ấy đến.