PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM, THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ ba: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 07/04/2024
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Tập 8
Chư vị đồng tu tôn kính, chào mọi người. A-di-đà Phật.
Mời xem kinh văn tiếp theo.
Nguyện ở vô lượng thế giới thành Đẳng chánh giác. Rời Đâu-suất, giáng sanh vào vương cung, bỏ ngôi vị mà xuất gia, khổ hạnh học đạo. Thị hiện như thế để thuận theo thế gian, dùng sức định tuệ hàng phục ma oán, đắc pháp vi diệu, thành bậc tối Chánh giác. Người trời quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân.
“Nguyện ở vô lượng thế giới thành Đẳng chánh giác.”
Câu này nêu rõ Bồ-tát trong hội vì độ chúng sanh mà nguyện đến vô lượng thế giới mười phương thị hiện thành Phật.
Phẩm Phổ Môn nói: “Đáng dùng thân Phật để độ liền hiện thân Phật để thuyết pháp”. “Nguyện” là chỉ cho thệ nguyện. Trong Pháp Quật nói: có sự mong cầu đối với đạo xuất thế thì gọi là “nguyện”. “Thế giới”, “thế” là chỉ thời gian, biểu thị ba đời; “giới” là chỉ không gian, biểu thị mười phương.
“Đẳng chánh giác”, trước đây dịch là “Đẳng giác”.
“Đẳng giác” có hai hàm nghĩa:
1. Vị trí cao nhất của Bồ-tát. Sắp sửa đạt được Phật quả Diệu giác nên gọi là “Đẳng giác”. Công đức trí tuệ của các ngài tương đương, tương tự với Diệu giác Phật. Các ngài là trăng 14, vẫn kém một phần so với trăng rằm, thế nhưng cũng hết sức giống rồi.
2. Đẳng giác chính là Phật. Trong Vãng Sanh Luận Chú nói: các pháp bình đẳng, chư Như Lai bình đẳng, cho nên gọi là Đẳng giác. “Đẳng giác” mà kinh này nói là chỉ cho Phật. Bồ-tát trong hội đến mười phương thị hiện thành Phật.
“Rời Đâu-suất, giáng sanh vào vương cung” cho đến “mà thị hiện diệt độ” gọi là tám tướng thành đạo. Đây là cách thức thông thường mà Thích-ca Mâu-ni Phật và tất cả chư Phật thị hiện thành đạo. Đại sư Gia Tường nói: “rời Đâu-suất” là tướng thứ nhất, “giáng sanh vào vương cung” là tướng thứ hai và tướng thứ ba, “bỏ ngôi vị mà xuất gia, khổ hạnh học đạo” là tướng thứ tư, “hàng phục ma oán” là tướng thứ năm, “thành bậc tối Chánh giác” là tướng thứ sáu, “người trời quy ngưỡng” cho đến “hiển thị Tam thừa” đoạn lớn này là tướng thứ bảy, “đối với hàng trung hạ căn mà thị hiện diệt độ” là tướng thứ tám. Bồ-tát trong hội phải đến vô lượng thế giới thị hiện thành Phật với tám tướng thành đạo.
“Rời Đâu-suất.”
Đây là tướng thứ nhất, biểu thị giáng sanh từ trời Đâu-suất. Trong Phật Địa Luận Đệ Ngũ nói: trời Đâu-suất có các Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ giáo hóa ở nơi đây, tương lai tất cả Đại sĩ bổ xứ đều giáng sanh từ cõi trời này, thị hiện tám tướng thành Phật. Đâu-suất là tầng trời thứ tư của Dục giới, cõi trời này có nội viện Đâu-suất, Đại sĩ Di-lặc thuyết pháp ở đây.
“Giáng sanh vào vương cung.”
Đây là tướng thứ hai và thứ ba, biểu thị ý nghĩa gá thai và ra đời.
Trong kinh Nhân Quả nói: Phu nhân Ma-da nhìn thấy Bồ-tát cưỡi voi trắng sáu ngà từ không trung đến, tiến vào thân của bà từ hông bên phải, từ bên ngoài bụng vẫn có thể nhìn thấy tình hình của Bồ-tát ở trong bụng.
Trong kinh Niết-bàn nói: Phật là từ mẹ Ma-da mà sanh, sau khi chào đời liền đi bảy bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói: “Trên trời dưới trời, chỉ ta là tôn quý nhất”. Chữ “ta” ở đây không phải là tướng ngã, mà chính là chân ngã lìa tướng.
Trong Tịnh Ảnh Sớ nói: Phật đi vòng quanh mười phương trong bảy bước, biểu thị sức phấn chấn nhanh nhẹn của đại trượng phu. Có người nói xuất gia là hành vi tiêu cực, thực ra xuất gia là việc làm của đại trượng phu, là đại anh hùng thực sự.
“Bỏ ngôi vị mà xuất gia, khổ hạnh học đạo.”
Đây là tướng thứ tư, biểu thị ý nghĩa xuất gia.
Trong bản dịch thời Ngụy nói: Thích-ca Mâu-ni Phật sau khi nhìn thấy người già, người bệnh, người chết nên quyết định xuất gia. Phật xả bỏ quyến thuộc, cưỡi ngựa trắng vượt thành ra ngoài. Sau khi Phật xuất gia, ở dưới cây tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt mè, một hạt lúa mạch. Chúng ta thấy hình vẽ Thích-ca Mâu-ni Phật lúc khổ hạnh, một người ngồi ngay ngắn, giống một bộ xương được bọc lớp da bên ngoài, đó chính là hình ảnh thái tử khổ hạnh học đạo.