PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM, THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ ba: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 17/04/2024
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Tập 23
Chư vị đồng tu tôn kính, chào mọi người. A-di-đà Phật. Mời xem kinh văn tiếp theo:
Khi con thành Phật, quang minh vô lượng, chiếu khắp mười phương, hơn hẳn chư Phật, hơn ánh sáng của nhật nguyệt, ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sanh, thấy quang minh của con, chiếu đến thân họ, thảy đều an lạc, tâm từ làm thiện, sau sanh về nước con. Nếu không như vậy, con không thành Chánh giác.
Trước hết, chúng ta xem sáu câu kinh văn đầu:
“Khi con thành Phật, quang minh vô lượng, chiếu khắp mười phương, hơn hẳn chư Phật, hơn ánh sáng của nhật nguyệt, ngàn vạn ức lần.”
Đây là nguyện thứ mười ba: nguyện quang minh vô lượng.
Lời nguyện này là một trong năm nguyện chân thật của đại sư Thiện Đạo. Đại ý là: nguyện khi con thành Phật, quang minh của con không có giới hạn, không có bờ mé, soi chiếu khắp mười phương trên dưới, hết thảy mọi nơi. Quang minh phát ra tuyệt đối phải vượt hơn quang minh của tất cả chư Phật, phải vượt hơn ánh sáng của mặt trời và mặt trăng ngàn vạn ức lần. Quang minh chiếu khắp mọi nơi, công đức và diệu dụng của quang minh cũng tỏa khắp mọi nơi, chúng sanh được nhiếp thọ và độ hóa cũng là vô tận. Cho nên, đây là gốc phương tiện của đại bi, là công đức chân thật của báo thân Phật. Muốn đại bi độ sanh thì phải có phương tiện, cho nên quang minh chiếu khắp để nhiếp thọ chúng sanh.
Sư Vọng Tây của Nhật Bản nói, mười phương hư không không có bờ mé, thế nên cõi nước cũng không có bờ mé; cõi nước không có bờ mé, nên chúng sanh trong cõi nước cũng không có bờ mé; có vô lượng cõi nước thì có vô lượng chúng sanh. Cho nên, đại nguyện này của đại sĩ Pháp Tạng không chỉ là độ nhân loại trên địa cầu, mà là mọi loài chúng sanh. Cũng không chỉ là một địa cầu, mà là vô lượng địa cầu, vô lượng thiên thể. Thiên thể vô biên, chúng sanh vô biên, nên đại bi của Phật cũng vô biên, lợi ích ban cho chúng sanh cũng không có bờ mé. Hơn nữa, độ sâu của lợi ích này cũng không có bờ mé. Chính vì xuất phát từ chúng sanh, muốn làm cho chúng sanh nhận được lợi ích không có bờ mé, thế nên quang minh cũng không có bờ mé.
“Hơn hẳn chư Phật.” Có người sẽ hỏi, chư Phật vốn bình đẳng, vì sao quang minh của A-di-đà Phật lại hơn hẳn chư Phật? Kinh này nói: “Quang minh chư Phật chiếu xa hay gần là do đời trước cầu đạo có bổn nguyện công đức lớn nhỏ không đồng, đến khi thành Phật, sở đắc của mỗi vị không như nhau, thành tựu tự tại không phải do dự trù trước.” Lại nói: “Oai thần quang minh của A-di-đà Phật tối tôn đệ nhất, chư Phật mười phương chẳng thể sánh bằng.” Những điều này là do lúc tu nhân trong quá khứ, nguyện lực của mỗi vị khác nhau, đến khi thành Phật, mỗi vị theo nguyện mà mình đã phát, tự nhiên thành tựu, không cần sắp đặt.
Nguyện mà ngài Pháp Tạng đã phát chính là nguyện vượt hơn chư Phật, nên khi thành Phật, oai thần quang minh của ngài là tối tôn đệ nhất trong mười phương chư Phật. Ngài Pháp Tạng muốn “hơn hẳn chư Phật”, tuyệt đối không phải ngài phô trương háo thắng, muốn mình nổi bật, mà là sự phụng hiến tha thiết dành cho chúng sanh, ban cho chúng sanh lợi ích chân thật vượt hơn chư Phật. Do vậy, Di-đà được gọi là đại nguyện vương, vua trong các Phật, nguyên nhân căn bản chính là ở đây.
Trong kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni nói: Chư Phật có hai loại quang minh: một là thường quang: viên minh vô ngại, luôn luôn chiếu soi; hai là phóng quang: dùng quang minh để khiến người tỉnh ngộ, có lúc chiếu soi, hoặc hiện ra, hoặc thu lại, tùy nghi tự tại. Nguyện này chỉ cho thường quang. Quang minh của Phật vô lượng, cho nên gọi là Vô Lượng Quang; thường chiếu soi không gián đoạn, nên còn gọi là Thường Chiếu Quang, cho nên quang minh của Phật “hơn ánh sáng của nhật nguyệt ngàn vạn ức lần”. Hết thảy quang minh phàm tục đều không thể sánh.
Lại xem tám câu kinh văn sau:
“Nếu có chúng sanh, thấy quang minh của con, chiếu đến thân họ, thảy đều an lạc, tâm từ làm thiện, sau sanh về nước con. Nếu không như vậy, con không thành Chánh giác.”
Đây là nguyện thứ mười bốn: nguyện chạm quang minh được an lạc.