/ 22
29

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM, THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH

Phúc giảng lần thứ ba: Cô Lưu Tố Vân

Thời gian: 15/04/2024

Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu

Tập 21


Chư vị đồng tu tôn kính, chào mọi người. A-di-đà Phật.

Bắt đầu từ hôm nay, tôi sẽ giảng kinh văn phẩm thứ sáu:

PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN

Phẩm kinh văn này là phẩm cốt lõi quan trọng nhất của toàn kinh, do chính bổn sư A-di-đà Phật tuyên nói, Thích-ca Mâu-ni Phật thuật lại. Phật Thích-ca thuật lại cũng như A-di-đà Phật đích thân tuyên nói, không có khác biệt. Mỗi chữ mỗi câu của toàn kinh đều liên quan đến 48 nguyện, đều là phần thuyết minh và giảng giải cho 48 nguyện, là chỗ y cứ, căn cứ ban đầu của tất cả các kinh luận Tịnh độ, là chân kinh của Tịnh độ, cũng được xem là bản hiến chương lớn của thế giới Tây Phương Cực Lạc, mà chúng ta còn gọi là hiến pháp.

Phẩm kinh văn này là tỳ-kheo Pháp Tạng tuân theo lời dạy của thầy ngài là Thế Tự Tại Vương Như Lai, ở trong pháp hội, tuyên nói những đại nguyện mà chính ngài đã phát, được gọi là “đại nguyện vương.” Có thể thấy những đại nguyện mà tỳ-kheo Pháp Tạng đã phát khi còn ở nhân địa vô cùng thù thắng. Công đức của 48 nguyện thành tựu, quy kết về Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là Nam-mô A-di-đà Phật.

Do thệ nguyện không thể nghĩ bàn, nên hết thảy diệu pháp phương tiện độ sanh đều nằm trong đại thệ nguyện này, không có pháp nào tiện lợi hơn pháp này. Các loại pháp độ sanh tiện lợi trong lục độ vạn hạnh đều nằm trong tiếng Phật hiệu sáu chữ hồng danh, hơn nữa còn là pháp ổn thỏa nhất, vạn người tu, vạn người đi. Do vậy, biển đại thệ nguyện chính là kho phương tiện.

Pháp môn công đức không thể nghĩ bàn này bắt nguồn từ biển nguyện không thể nghĩ bàn. Hết thảy công đức, hết thảy sự thù thắng, hết thảy phương tiện đều từ biển đại nguyện không thể nghĩ bàn của Di-đà.

Mời xem kinh văn tiếp theo:

Pháp Tạng bạch rằng: “Ngưỡng mong Thế Tôn, từ bi lắng nghe và soi xét.”

Tỳ-kheo Pháp Tạng hướng về Phật bạch rằng: “Ngưỡng mong Thế Tôn, từ bi lắng nghe và soi xét.” Kính thỉnh Thế Tôn rũ lòng từ bi lắng nghe và soi xét cho con.

Khi đó, danh hiệu của Phật thời tỳ kheo Pháp Tạng là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, danh hiệu này rất có ý nghĩa, nó là biểu pháp, biểu pháp gì vậy? Biểu thị cho sự đặc biệt của pháp môn Tịnh độ, đó chính là có thể tu hành tự tại ngay trong thế gian. Đại triệt đại ngộ trong Thiền tông cũng có thể như vậy, nhưng có được mấy người đại triệt đại ngộ? “Trúc dày không ngăn nước chảy qua”, trúc có dày đặc đến đâu cũng không ngăn được dòng nước chảy qua. Cho dù công việc có bận đến đâu, đều có thể ung dung niệm Phật. Do vậy Tịnh tông không cần phải xuất gia, bạn có thể làm bất kỳ công việc gì, “không bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp, không rời Phật pháp mà hành thế pháp”. Chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Mời xem kinh văn tiếp theo:

Con nếu chứng đắc Vô thượng bồ-đề, thành Chánh giác rồi, nơi cõi Phật ấy, có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm, không thể nghĩ bàn. Không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài côn trùng bay bò. Tất cả mọi chúng sanh, cho đến cõi Diêm-ma-la, trong ba đường ác sanh về cõi con, nhận pháp giáo hóa của con, đều thành A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, không đọa vào đường ác nữa. Nếu được như nguyện, con mới làm Phật; nếu không được như nguyện, con không thành Vô thượng chánh giác.

Mời xem năm câu kinh văn đầu:

“Con nếu chứng đắc Vô thượng bồ-đề, thành Chánh giác rồi, nơi cõi Phật ấy, có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm, không thể nghĩ bàn.”

Năm câu này là lời tán thán chung cho thế giới Cực Lạc.

“Con” là tỳ-kheo Pháp Tạng tự xưng. Ngài nói, khi con thành Phật, cõi Phật mà con ở “đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm, không thể nghĩ bàn”.

“Đầy đủ” là hàm nhiếp tất cả, nghĩa là viên mãn, không có thiếu sót.

“Vô lượng” là không thể dùng con số để biểu thị. Cõi Phật này có công đức thù thắng và sự trang nghiêm thanh tịnh trùm khắp mọi nơi, hàm nhiếp tất cả, không có thiếu sót, không gì chẳng đủ, không thể dùng số lượng để biểu thị.

Tất cả những điều này đều vượt ngoài tình kiến, “không thể nghĩ bàn”. “Không thể nghĩ” là chỉ đầu óc con người không thể nghĩ đến; “không thể bàn” là chỉ lưỡi con người không nói ra được. Đầu óc và lưỡi của con người đều không dùng được, những gì suy nghĩ và tư duy đều không đúng, những gì nói ra cũng hoàn toàn không đúng. Phàm có lời nói thì đều không phải là nghĩa chân thật. Công đức của thế giới Cực Lạc chẳng thể suy lường phân biệt mà có thể hiểu được, cũng không thể biểu đạt bằng ngôn ngữ văn tự. Cõi nước Cực Lạc công đức trang nghiêm như vậy, không thể nghĩ bàn như vậy. Một thế giới như thế, sao chúng ta lại không đến chứ?

/ 22