/ 12
2

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM, THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH

Phúc giảng lần thứ ba: Cô Lưu Tố Vân

Thời gian: 10/04/2024

Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu

Tập 12


Chư vị đồng tu tôn kính, chào mọi người. A-di-đà Phật. Từ hôm nay, chúng tôi bắt đầu giảng kinh văn.

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Kinh văn phẩm này là phần biệt tự của kinh này, còn gọi là “phát khởi tự”. Trong phần tự, Thế Tôn phóng quang hiện tướng lành, tôn giả A-nan vui mừng thưa hỏi. Thế Tôn giải đáp điều nghi, khai diễn một bộ pháp bảo rộng lớn, viên mãn, giản dị, thẳng tắt, phương tiện, rốt ráo, hiếm có khó gặp nhất, chính là: kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác. Mời xem kinh văn bên dưới.

Bấy giờ Thế Tôn uy thần quang minh rực rỡ mạnh mẽ, như ánh sáng của vàng nung chảy, lại như gương sáng, trong ngoài đều tỏ. Hiện ánh sáng lớn, trăm ngàn sắc tướng. Tôn giả A-nan liền tự suy nghĩ: ngày nay sắc thân các căn của Thế Tôn hoan hỷ thanh tịnh, dung nhan sáng ngời tôn quý, cõi báu trang nghiêm, từ trước đến nay chưa từng nhìn thấy. Vui mừng được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, quỳ gối chắp tay và bạch Phật rằng: Hôm nay Thế Tôn nhập đại tịch định, trụ trong pháp kỳ đặc, trụ nơi chư Phật trụ, trụ nơi hạnh của đạo sư, đạo thù thắng bậc nhất! Quá hiện vị lai Phật Phật niệm nhau, Thế Tôn là niệm chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, hay niệm chư Phật hiện tại phương khác? Vì sao lại có uy thần hiển diệu, quang minh tướng lành đặc biệt vi diệu như vậy? Nguyện Thế Tôn vì chúng con mà tuyên thuyết.

Kinh văn đoạn này khá dài, chúng tôi sẽ chia thành chín đoạn nhỏ để giảng giải.

“Bấy giờ Thế Tôn uy thần quang minh rực rỡ mạnh mẽ, như ánh sáng của vàng nung chảy.”

“Thế Tôn” là chỉ Thích-ca Mâu-ni Phật. “Uy” nghĩa là uy nghiêm mạnh mẽ, khiến người sinh tâm kính sợ. “Quang” là ánh sáng từ thân Phật phát ra có thể chiếu soi muôn vật, nên gọi là “minh”. Ánh sáng ấy có uy thần, nên gọi là “uy thần quang minh”. “Rực rỡ mạnh mẽ”, “rực rỡ” nghĩa là sáng rực, “mạnh mẽ” nghĩa là cường thịnh. “Uy thần quang minh rực rỡ mạnh mẽ”, ánh sáng do Phật phóng ra hùng mãnh đầy uy lực, sáng rực mạnh mẽ. “Như ánh sáng của vàng nung chảy”, giống như vàng được nung chảy và tụ lại. Vàng vốn đã rất sáng, khi bị nung chảy càng sáng ngời hơn. Thép và sắt vốn không phát sáng, nhưng ở trong lò luyện thì ánh thép sáng cực kỳ.

“Lại như gương sáng, trong ngoài đều tỏ.”

Thân Phật phóng quang giống như gương sáng, ánh sáng từ gương chiếu ra bên ngoài gọi là “chiếu ngoài”. Ánh sáng gương không chỉ chiếu ra bên ngoài, mà soi vào bên trong gương cũng rất sáng rõ, gọi là “chiếu trong”. Ánh sáng nơi thân Phật giống như ánh sáng của gương, trong ngoài đều sáng rõ, gọi là “trong ngoài đều tỏ”. Tu pháp Mật tông, quán tượng của bổn tôn, chính là khởi quán theo cách như vậy. Tượng của bổn tôn không phải thật có, cũng chẳng phải không, mà thuần túy là thể của ánh sáng, trong ngoài đều phát sáng.

“Hiện ánh sáng lớn, trăm ngàn sắc tướng.”

“Ánh sáng lớn”, “lớn” là chỉ ánh sáng này vô cùng thù thắng, sáng rỡ và rộng lớn; đồng thời màu sắc của ánh sáng không ngừng thay đổi biến hóa; trong ánh sáng có màu sắc, trong màu sắc có ánh sáng, ánh sáng và màu sắc chuyển biến lẫn nhau. Hình thái của ánh sáng cũng không ngừng biến đổi, càng biến đổi càng vi diệu, đây chính là “trăm ngàn sắc tướng”.

“Tôn giả A-nan liền tự suy nghĩ: ngày nay sắc thân các căn của Thế Tôn hoan hỷ thanh tịnh.”

A-nan là thị giả của Phật, ngài đã chứng Sơ quả. Trong hội Pháp Hoa nói: A-nan và Thế Tôn cùng phát tâm dưới hội của Phật Không Vương. A-nan ưa thích đa văn, Thế Tôn thì thường siêng năng tinh tấn, do vậy Thế Tôn đã chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Có những người chỉ biết nghe nhiều mà không tu hành. Vì sao vậy? Bởi những gì họ hiểu đều là tà kiến. Nếu thật sự khai được chánh giải thì nhất định sẽ tu hành. Lại có những người chỉ hành mà không giải, cả đời tu hành, kết quả không phải là phá vô minh mà là tăng trưởng vô minh. Do đó, cần phải giải hành tương ưng.

/ 12