Kính thưa Thầy và các Thầy Cô!
Chúng con xin phép chia sẻ một số nội dung chính mà chúng con ghi chép trong bài Thầy Vọng Tây giảng từ 4h50’ đến 6h00’, sáng Thứ Bảy, ngày 13/12/2025.
****************************
PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC
Bài 279: Tri kiến lập tri thị vô minh bổn
Tri kiến chính là cái biết của bản thân mình; nếu chấp chặt vào cái biết ấy thì gọi là “tri kiến lập tri”. Tự cho rằng mình đã biết đúng rồi và cứ làm theo sự chấp trước đó thì là sai lầm. Ngày nay, chúng ta thấy có những hạng người mới học được đôi chút đã tự cho là mình hiểu biết, rồi sinh tâm chấp bên này bỏ bên kia, thích chỗ này chê bai chỗ khác. Trong khi đó, Đại Pháp mà Tổ Sư, Đại Đức nhiều đời đã tu hành, như Tịnh Độ Tông của chúng ta, vốn vô cùng rộng lớn. Nếu đem toàn bộ kinh tạng của Tịnh Độ ra đọc thì cả một đời này cũng không thể đọc hết. Vậy mà có người lại nói đây là pháp không thật, là pháp gạt người. Nếu quả thật là pháp gạt người, thì vì sao chư Tổ Sư, Đại Đức lại bỏ công tu hành và truyền thừa qua nhiều đời? Cái “không thật” ấy thực ra xuất phát từ những kẻ thiếu học, tự cho mình là biết, tự cho mình là đúng. Cho nên mới có câu: “Tri kiến lập tri thị vô minh bổn” – tức là cái gốc của vô minh chính là chấp vào tri kiến của mình.
Riêng bộ Tịnh Độ Toàn Tập, ở ngôi chùa gần đây có đến hơn 10 quyển, tôi không nhớ chính xác. Khi nhìn thấy bộ Tịnh Độ Toàn Tập, tôi rất ngưỡng mộ và nghĩ rằng cả đời mình cũng khó có cơ hội đọc hết, chứ đừng nói đến việc dịch. Bởi vì bản thân đã tin vào Tịnh Độ, nên suốt cuộc đời này tôi chỉ chuyên tâm niệm một câu “A Di Đà Phật”. Trong Tịnh Độ Tông, Tổ Sư đã dạy: Cho dù Thích Ca Mâu Ni Phật hiện ra ngay trước mặt và bảo rằng “Thôi, con đừng niệm Phật nữa, hãy tu pháp khác đi”, thì ta phải biết chắc rằng đó không phải là Thích Ca Mâu Ni Phật thật, mà là ma giả Phật, bởi chính Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng như vậy trên Đại Tạng Kinh. Đại Tạng Kinh có hơn 200 bộ kinh nhắc đến Tịnh Độ. Như chúng ta từng nghe Hòa thượng giảng, và mọi người cũng đều biết, ngay cả những người không tu Tịnh Độ cũng biết đến Kinh Hoa Nghiêm. Trong Kinh Hoa Nghiêm có nhắc đến Tịnh Độ; Kinh Lăng Nghiêm có phẩm Niệm Phật Viên Thông Chương. Hai bộ kinh lớn này đều do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng, trong đó có đề cập và giải thích về Tịnh Độ.
Ngày nay, có những người tu hành chỉ vài ba ngày, vài ba năm đã vội vàng tự cho mình là người hiểu biết, rồi sinh tâm thích chỗ này, chê chỗ kia. Đó chính là “Tri kiến lập tri thị vô minh bổn” – gốc rễ của vô minh. Chúng ta không nói một cách cưỡng cầu, mà hãy suy xét: trong một vườn hoa, phải có nhiều loài hoa mới tạo nên hương sắc. Trong thế gian cũng vậy, có rất nhiều nghề nghiệp khác nhau. Không thể chỉ nói rằng tôi thích làm nghề điện tử, còn nghề thông cống thì không thích. Thử nghĩ xem, nếu không có những người làm công việc thông cống, liệu chúng ta có thể ngồi yên được không, hay nước sẽ ngập đến tận cổ? Nói đến đây, tôi nhớ một kỷ niệm: hơn mười năm trước, trên đường đi làm về, tôi tận mắt thấy các anh công nhân lặn ngụp xuống đường cống ở Bình Trị Đông, nước đen ngòm, rất dơ bẩn. Lúc đầu tôi tưởng các anh dùng thiết bị gì đó để chui xuống, nhưng hóa ra họ phải trực tiếp lặn xuống dòng nước ấy. Đi ngang qua, tôi thấy có người bán nước mía, liền mua 4–5 túi rồi quay lại đưa cho người đứng bên trên, nhờ chuyển xuống cho các anh. Tôi chỉ muốn bày tỏ một chút lòng tri ân của mình. Vậy thì chúng ta đâu thể nói rằng nghề điện tử, viễn thông là sạch sẽ, tốt đẹp, còn nghề khác thì không tốt. Làm gì có chuyện phân biệt như thế.
Trong pháp tu, Đức Phật đã nói đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn nào tương thích với căn cơ của chính mình, nếu tu hành có thành tựu thì mới gọi là tương thích. Còn nếu lấy pháp môn ấy để khoe khoang, để nói cho người khác nghe thì đó là sai lầm. Thật ra, chúng ta hãy tự xét lại: những người tu hành có thành tựu, họ có thích khoe khoang không? Thế gian có câu: “Thùng rỗng kêu to.”. Thùng gạo đầy, gõ vào chỉ kêu “thịch thịch”; còn thùng rỗng thì gõ sẽ vang to. Người tu hành chân thật, có thành tựu, thường khiêm nhường, không phô trương. Cho nên khi học bài “Tri kiến lập tri thị vô minh bổn”, chúng ta phải ghi nhớ: đừng tự cho rằng mình biết, rồi cho rằng cái biết của người khác là sai. Bởi cái biết của người khác có sự truyền thừa chính thống từ bao đời, nếu ta khinh thường thì quả báo mới thật đáng sợ. Cái biết của mình chỉ là lượm nhặt, nghe đâu nói đó, dễ sai lạc. Trong khi cái biết của người xưa là sự truyền thừa chính mạch từ chư Tổ Sư nhiều đời, trải qua quá trình dài thực chứng.