Kính thưa Thầy và các Thầy Cô!
Chúng con xin phép chia sẻ một số nội dung chính mà chúng con ghi chép trong bài Thầy Vọng Tây giảng từ 4h50’ đến 6h00’, sáng thứ Năm, ngày 10/07/2025.
****************************
PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC
BÀI 129
TU HÀNH CHÍNH LÀ BUÔNG XẢ
Chúng ta thường hiểu hai chữ “tu hành” một cách mơ mơ, hồ hồ. Hòa Thượng nói: “Tu hành chính là buông xả”. Tu hành chính là chúng ta buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nhiều người cho rằng tu hành là hằng ngày niệm Phật, lạy Phật, nhưng nếu tâm chúng ta vẫn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì chúng ta không thể có thành tựu.
Người xưa kể câu chuyện, có một người khi gặp Lục Tổ thì lạy Ngài nhưng đầu không chạm đất. Lục Tổ hỏi ông có điều gì đáng tự hào mà khi lạy, đầu của ông không chạm đất. Người này nói, đó là vì ông đã tụng “Kinh Pháp Hoa” 3000 lần. Người này cho rằng, không ai có công phu bằng ông, đây là ông đã có tâm phân biệt, chấp trước. Ngày trước, tôi cần khoảng một tuần để tụng xong bộ “Kinh Pháp Hoa”. Tôi đã gặp một người đã tụng “Kinh Pháp Hoa” 1000 lần, sau khi tụng xong, họ tổ chức lễ hoàn kinh, cúng dường trai tăng quý Thầy Cô, bà cũng mời tôi và người lồng tiếng các đĩa của Hòa Thượng đến tham dự. Bà đã tụng “Kinh Pháp Hoa” 1000 lần nhưng vẫn chưa thể ăn chay. Khi người chị của bà nói muốn mở đạo tràng để mọi người đến niệm Phật thì bà nói: “Chị có bao nhiêu công đức mà chị dám mở đạo tràng để mọi người niệm Phật!”. Hòa Thượng nói: “Tu hành chính là buông xả”. Chúng ta tu hành được thời gian bao lâu không quan trọng, quan trọng nhất là chúng ta có thể buông xả, trong tâm không vướng bận, mọi sự, mọi việc. Hòa Thượng thường dạy chúng ta: “Việc tốt cần làm nên làm không công, không đức”.
Hòa Thượng nói: “Thế Tôn năm 19 tuổi đã xả bỏ vinh hoa phú quý, vương vị để xuất gia tham học. Thời đó, đất nước Ấn Độ có đến 96 ngoại đạo, phần lớn là tôn giáo, gần một nửa là học thuật. Thế Tôn là vương tử, thông minh tuyệt đỉnh, không luận là tôn giáo hay học phái cao minh nào, Ngài đều rất chăm chỉ, cần cầu học tập, Ngài chân thật là bác học đa văn”. Thái Tử Tất Đạt Đa thông kinh xuất chúng, võ nghệ cao cường, Ngài đã đạt đến đỉnh cao trong nhiều lĩnh vực, các Thầy giáo đều nói không còn gì để dạy Ngài. Tất cả tôn giáo ở Ấn Độ thời đó đều chỉ là thiền định thế gian, chưa đạt đến thiền định xuất thế gian, trình độ cao nhất chỉ là tứ thiền bát định.
Hòa Thượng nói: “Tứ thiền định là ở trời tứ thiền, tứ không định là ở trời tứ không; hợp lại là bát định, vẫn chưa thể siêu vượt luân hồi. Ở trong cảnh giới thiền định này, họ có thể nhìn thấy được sáu cõi luân hồi, chính mắt thấy, chính tai nghe, cho nên sáu cõi luân hồi không phải do Phật giáo nói mà là Bà La Môn giáo nói ra. Họ có thể nhìn thấy sáu cõi nhưng không thể vượt thoát, đột phá ra ngoài sáu cõi”.
Hòa Thượng nói: “Thái tử Tất Đạt Đa có ba vấn đề mà không ai có thể giải đáp. Vấn đề thứ nhất là sáu cõi luân hồi từ đâu mà có, vấn đề thứ hai là vì sao có sáu cõi luân hồi, vấn đề thứ ba là ngoài sáu cõi luân hồi thì có thế giới nào nữa hay không. Không một ai có thể trả lời ba câu hỏi này, Thế Tôn tham học 12 năm, từ khi 19 tuổi đến khi 30 tuổi nhưng kết quả đều không cứu cánh”. Chúng ta học tập không đạt đến đỉnh cao vì chúng ta lập chí ngày càng nhỏ hẹp, nhiều người tu hành chỉ để được khoẻ mạnh, có phước, sống lâu.
Hòa Thượng nói: “Người ngày nay không có chí cao rộng như Lục Tổ. Lần đầu tiên khi Lục Tổ đến gặp Ngũ Tổ, Ngài là một tiều phu đốn củi, không biết chữ nhưng Ngài đã lập chí vượt thoát sinh tử, Ngài nói: “Con đến đây để làm Phật”. Chúng ta học Phật, chúng ta có lập chí thành Phật không? Nhiều người tu hành chỉ để cầu mong có cơm ăn, áo mặc. Người xưa nói: “Người phước nhất định ở đất phước”. Chúng ta có phước thì chúng ta không cần phải mong cầu có cơm ăn, áo mặc. Ngày trước, Lục Tổ nói với Ngũ Tổ: “Trong tâm con thường sanh trí tuệ”. Nếu chúng ta gặp Ngũ Tổ thì chúng ta sẽ nói: “Trong tâm con thường sanh phiền não!”. Chúng ta luôn chìm trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên chúng ta luôn phiền não, không có trí tuệ.
Hòa Thượng nói: “Thái Tử Tất Đạt Đa lúc đó cho rằng học thuật thế gian không cứu cánh, không thể vượt thoát sáu cõi luân hồi nên Ngài đã xả bỏ, Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tĩnh tọa, xả bỏ tất cả những gì đã học trong 12 năm, khi vừa xả bỏ thì liền khai ngộ. “Xả bỏ” ở đây chính là xả bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, khi Ngài xả bỏ thì trí tuệ vốn có trong tự tánh liền xuất hiện”. Sau khi trí tuệ trong tự tánh lưu lộ thì Thái Tử Tất Đạt Đa liền thấu hiểu những điều mình đã thắc mắc. Chúng ta không thể thông đạt mọi sự, mọi việc vì chúng ta có chấp trước, thành kiến, “cái thấy” của chúng ta như một cái thành trì vững chắc. Chúng ta phá bỏ “cái thành”, chúng ta không cho rằng “cái thấy” của chúng ta là đúng thì trí tuệ sẽ khai mở, sẽ thông suốt.