/ 128
1.148

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN

Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Tập 94


Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!

Nhân dịp đầu năm mới, chín đại tôn giáo của Singapore đã liên kết tổ chức đêm liên hoan ấm áp cầu nguyện hòa bình cho thiên niên kỷ mới. Tôi xin chúc phúc mỗi vị đồng tu năm mới cát tường như ý, phước huệ tăng trưởng. Hôm nay là ngày đầu tiên của đại thế kỷ mới chúng tôi gặp mặt các bạn đồng học, trong dịp gặp mặt lớn hiếm có này có một số bạn đồng tu nêu vài câu hỏi. Những câu hỏi này cũng là những vấn đề mà mọi người thường gặp phải, thế nhưng hàm ý chân thật cũng rất mơ hồ. Mọi người yêu cầu tôi giảng giải một cách đơn giản.

Câu hỏi đầu tiên là: Vì sao đệ tử nhà Phật khi vừa gặp mặt liền chắp tay xưng danh “A Di Đà Phật”, điều này có ý nghĩa gì? Câu hỏi này hỏi rất hay, câu A Di Đà Phật mang ý nghĩa chúc phúc. Câu nói này là Phạn ngữ của Ấn Độ xưa, ngôn ngữ Ấn Độ cổ xưa. Ý nghĩa của câu này theo cách nói hiện nay của chúng ta là “quang thọ vô lượng”, là một lời chúc phúc, chúc bạn trường thọ, chúc bạn trí huệ quang minh. Hàm ý trong lời chúc phúc rất sâu xa, sâu xa tại điểm nào vậy? Tại điểm cảnh giác nhắc nhở bạn. Con người chúng ta ở thế gian này, quang minh mà cả đời chúng ta mong cầu là vô lượng quang, tâm địa chánh đại quang minh, đại công vô tư đối với hết thảy người, hết thảy sự, hết thảy vật. Ý nghĩa này quan trọng, mỗi ngày đều nghe lời nói này thì chúng ta liền cảnh giác chính mình. Vì sao vậy? Có thể nói chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, có rất nhiều người không tin có tiền kiếp, không tin có kiếp sau, cũng được, vậy chúng ta chỉ tính kiếp này. Từ ngày bạn bắt đầu chào đời cho đến khi bạn trưởng thành thì ý niệm của bạn đều là tự tư tự lợi. Tự tư tự lợi là đen tối, không phải là quang minh, chúng ta buông xuống tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm có thể suy nghĩ vì xã hội, suy nghĩ vì nhân dân, suy nghĩ vì chúng sanh, vì hết thảy người, hết thảy việc, hết thảy vật mà toàn tâm toàn lực cống hiến phục vụ thì cái tâm này là chính đại quang minh. “A Di Đà Phật” trong câu nói này hàm chứa ý nghĩa sâu sắc, ý nghĩa viên mãn như vậy. Bản thân chúng ta có thể có được hạnh phúc mỹ mãn chân thật, trong câu này đã bao gồm mạnh khỏe và trường thọ rồi. Từ câu “A Di Đà Phật”, xem từ ý nghĩa câu chữ thì “A Di Đà” có ý nghĩa vô lượng, chữ “Phật” có nghĩa là quang thọ. Vô lượng có ý nghĩa bao gồm hết thảy vô lượng bên trong, tất cả những vô lượng mà bạn có thể nghĩ đến. Cho nên đây là một lời chúc phúc rất viên mãn, rất hoàn mỹ. Chúng ta vừa gặp mặt thì câu đầu tiên liền nói “A Di Đà Phật”, câu nói này cùng với hư không pháp giới hết thảy chúng sanh đều tương ưng. Vì sao vậy? Vì đây là điều hết thảy chúng sanh đều mong cầu, vì vậy tâm tương ưng với hết thảy chúng sanh, điều này nhất định không phải mê tín. Câu nói này tổng kết hết thảy những lời nói tốt đẹp của thế gian, toàn bộ đều được quy nạp lại, hết thảy những lời nói tốt lành của thế gian đều ở trong một câu này. Một câu này là viên mãn rồi. Cho nên chúng ta hiểu được ý nghĩa này, xưng niệm “A Di Đà Phật” thì ý nghĩa sẽ càng viên mãn.

Câu hỏi thứ hai là: “Lục độ” có ý nghĩa gì? Từ xưa đến nay có thể nói các Pháp sư Đại đức giải nghĩa “Lục độ” rất nhiều. Những lời giải nghĩa này chúng ta ngày nay xem rồi, nghe rồi nhưng rất khó thể hội. Phật dạy chúng ta “Lục độ” là sáu nguyên tắc, quy phạm của cuộc sống, nhưng chúng ta từ trước đến giờ chưa có cách nào thực hiện được. Có rất nhiều Đại đức đồng học cũng biết giảng, giảng đâu ra đó, cũng trích dẫn kinh điển, thế nhưng lại không thực hành được. Chính vì vậy cũng chỉ là nói sáo rỗng, không những là nói sáo rỗng mà còn tạo thành rất nhiều hiểu lầm. Kinh luận của Phật là vĩnh viễn không đổi, giải nghĩa thì tùy theo thời đại, tùy theo khu vực khác nhau mà có sự giải thích khác nhau. Điều này đối với người mới học Phật sẽ cảm thấy vô cùng kỳ lạ, chẳng lẽ kinh điển của các bạn không có một sự giải nghĩa thống nhất sao? Không có. Đây là điều không giống nhau giữa Phật pháp và sách vở của thế gian. Sách vở của thế gian khi triển khai ra thì chỉ có một sự giải nghĩa, không thể có sự giải nghĩa thứ hai. Phật pháp không có sự giải nghĩa cố định. Không những Phật pháp không có sự giải nghĩa cố định mà trong kinh Phật nói với chúng ta, cả cuộc đời Ngài chưa từng thuyết Pháp, “Phật vô hữu pháp khả thuyết”. Nếu có người nói Phật thuyết pháp thì người này báng Phật. Vì vậy Phật pháp là linh hoạt chứ không chết cứng. Nếu chỉ có một sự giải nghĩa thì đó là cứng nhắc, nhưng Phật pháp là linh hoạt. Giống như một cái cây, cây là sống, bạn xem cây mỗi năm đều ra cành mới, mỗi năm đều thay lá mới. Lá trên cây của năm nay nhất định không phải là lá từ năm ngoái, lá năm ngoái đã rụng hết rồi. Hoa nở năm nay nhất định không phải là hoa của năm ngoái. Kinh điển giống như một cái cây, rễ cây và thân cây. Giảng giải của chúng ta giống như lá cây, giống như ngọn cây, năm nào cũng mới, tuy là mới thế nhưng nhất định không thể xa lìa gốc rễ, là từ trong gốc rễ sanh ra. Cho nên các vị xem chú giải của kinh Phật, người Trung Quốc đọc tụng phổ biến nhất là Kinh Kim Cang, Kinh Kim Cang có vài trăm loại chú giải. Nếu như Kinh Kim Cang chỉ có một ý nghĩa vậy thì cần một chú giải là đủ rồi, không cần thiết phải có chú giải thứ hai. Nội dung giảng của mỗi chú giải đều không giống nhau, thế nhưng đều không xa lìa nghĩa thú căn bản của Kim Cang Bát Nhã. Điều này cũng là chỗ khó giải của Phật pháp. Cho nên muốn giảng hay thì nhất định phải hiểu rõ, chúng ta thường nói hiện đại hóa và bản địa hóa. Bộ kinh này bạn giảng khi nào? Là giảng vào năm 2000, giảng ở chỗ nào vậy? Giảng tại khu vực này trên trái đất mà chúng ta đang sinh sống, chúng ta kế thừa nghĩa lý giảng giải của người xưa, chúng ta lĩnh hội từ chỗ này, thể hội từ chỗ này thế nhưng không thể dùng cách giảng giải trước đây. Nếu dùng cách giảng giải trước đây, vậy thì được thôi, nếu dùng chú giải của người thời Đường thì chúng ta cần mang người hiện nay quay trở lại thời Đường, phải lùi lại hơn một ngàn năm để làm người thời Đường thì người hiện nay chịu không nổi. Nếu như giảng pháp ở nước Mỹ thì không những phải khiến cho người Mỹ lùi lại một ngàn năm mà còn khiến người Mỹ trở thành người Trung Quốc, vậy thì còn ra thế nào nữa đây, họ làm sao có thể chấp nhận được? Cho nên chúng ta nhất định cần sửa cũ thành mới để trở thành sự giải nghĩa dành cho người hiện đại trong thế kỷ hai mươi mốt, như vậy họ sẽ hiểu được. Thế nào gọi là bố thí? Dùng cách nói hiện nay thì bố thí chính là tận tâm tận lực vì hết thảy chúng sanh phục vụ. Điều này mọi người sẽ dễ hiểu. Dùng tài lực của chúng ta, dùng trí huệ của chúng ta, dùng sức lao động của chúng ta phục vụ cho nhân dân, cho xã hội, cho chúng sanh. Điều này chính là bố thí ba-la-mật. Cách nói này vừa đơn giản vừa rõ ràng, mọi người vừa nghe liền hiểu, có thể chấp nhận được. Thế nào là trì giới ba-la-mật? Ý nghĩa của trì giới chính là tuân thủ pháp luật, giới là pháp luật, tuân thủ giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, tuân thủ hiến pháp pháp luật của quốc gia, tuân thủ phong tục tập quán, tập tục đạo đức của mỗi khu vực, của mỗi chủng tộc. Điều này gọi là trì giới. Chúng ta mới có thể cùng chung sống hòa thuận, bình đẳng đối đãi với mỗi khu vực, mỗi chủng tộc. Đây gọi là trì giới ba-la-mật. Thế nào gọi là nhẫn nhục ba-la-mật? Nhẫn nhục là nói về tâm nhẫn nại, đối người, đối việc, đối vật đều cần có tâm nhẫn nại. Nếu là điều bất thiện thì chúng ta cần có tâm nhẫn nại để từ từ đổi mới lại. Nếu là thiện pháp thì chúng ta có tâm nhẫn nại phát triển từ từ, không thể nóng vội. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “Dục tốc tắc bất đạt”, nhất định phải có tâm nhẫn nại chờ thời cơ nhân duyên chín muồi. Nóng vội là sai lầm, điều không tốt mà bạn muốn nhanh chóng sửa lại ngay thì sẽ không dễ dàng, không những không sửa được mà sợ rằng còn nảy sinh rất nhiều tác dụng phụ không tốt. Nếu muốn tích cực phát triển điều tốt cũng sẽ nảy sinh rất nhiều chướng ngại, do vậy cần có tâm nhẫn nại rất lớn. Sự việc càng lớn càng cần tâm nhẫn nại lớn, nên trong Kinh Kim Cang Phật nói với chúng ta “Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn”, sự thành công chính là dựa vào tâm nhẫn nại, dựa vào lực nhẫn nại. Khi thời cơ nhân duyên chưa chín muồi thì lúc này chúng ta phải làm thế nào? Tu dưỡng bản thân, vun bồi vững chắc đức hạnh học vấn năng lực của chính mình. Khi hết thảy nhân duyên chín muồi thì chúng ta mới có thể phát huy, bạn sẽ có thể nắm bắt được cơ hội. Nếu cơ hội chưa chín muồi thì nhanh chóng thành tựu chính mình, tăng cường chính mình, khi cơ hội chín muồi thì nhất định giúp đỡ xã hội, giúp đỡ đại chúng, nhất định không có ý niệm tự tư tự lợi, hết thảy đều vì chúng sanh, hết thảy đều vì Phật pháp. Phật pháp là dạy hết thảy chúng sanh giác ngộ. Đây là Phật pháp, pháp là phương pháp, Phật là giác ngộ, phương pháp giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ gọi là Phật pháp. Phật nói với chúng ta: Hết thảy khổ nạn của chúng sanh từ đâu mà có? Khổ nạn là do mê hoặc. Hạnh phúc vui sướng từ đâu mà có? Từ giác ngộ. Cho nên khổ và vui là quả báo, giác và mê là nhân của quả báo. Chúng ta muốn giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui vậy thì nhất định phải giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ. Muốn phá mê khai ngộ cần phải dạy học, cho nên Phật giáo là giáo dục, Phật giáo là dạy trí huệ giác ngộ. Ngày nay trong xã hội rất nhiều người xem Phật giáo là mê tín, điều này là quan niệm sai lầm, do họ chưa tiếp xúc với Phật giáo, họ không hiểu về Phật giáo, họ hiểu lầm Phật giáo. Điều này cũng không thể trách họ mà trách đệ tử nhà Phật chúng ta chưa giải thích rõ ràng với họ về Phật giáo, lỗi lầm tại chính mình không ở người khác. Ngày nay chúng ta tận dụng khoa học kỹ thuật, tận dụng Ti-vi, tận dụng truyền hình vệ tinh để giới thiệu Phật giáo cho đại chúng. Thế nào là tinh tấn ba-la-mật? Tinh tấn chính là ngày nay chúng ta nói đến sự tiến bộ. Nhà Nho nói “Mỗi ngày mỗi mới”, Nhà Phật nói tinh tấn, tấn là tiến bộ. Không những tiến bộ mà là sự tiến bộ thuần khiết, không phải là sự tiến bộ tạp loạn mà là có thứ tự, có trật tự. Ngày nay nói về khoa học, khoa học tức là có thứ tự có trật tự, có hệ thống học thuật, như vậy mới là cầu tiến bộ, mỗi ngày mỗi mới. Thế nên Phật pháp không phải là bảo thủ, không phải là lạc hậu, Phật pháp vĩnh viễn đi trước thời đại, vĩnh viễn dẫn dắt thời đại đi theo phương hướng trí huệ quang minh đúng đắn. Điều này gọi là tinh tấn ba-la-mật. Thế nào gọi là thiền định ba-la-mật? Lục Tổ Huệ Năng bên Thiền tông nói rất hay: Bên ngoài không chấp tướng gọi là thiền, bên trong không động tâm gọi là định, điều này được nói trong Đàn Kinh. Trên thực tế, Lục Tổ thể hội được là từ Kinh Kim Cang. Trong Kinh Kim Cang, Phật nói hai câu “Bất thủ ư tướng, như như bất động”. Bạn xem sự giải thích của Lục Tổ giúp chúng ta dễ hiểu. Thế nào gọi là “bất thủ ư tướng”? Dùng lời nói ngày nay chính là nhất định không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc, đó chính là “bất thủ ư tướng”, đó gọi là thiền. Thiền là không bị mê hoặc, bạn vừa tiếp xúc “tài, sắc, danh, thực, thùy” bên ngoài liền động tâm thì bạn chưa có thiền, chưa có công phu thiền. Công phu của thiền là khi tiếp xúc nhất định không khởi tâm động niệm. “Định” là nội tâm không sanh tốt hay xấu. Người thông thường khi thấy điều hợp với ý mình liền khởi tâm tham, khi thấy điều không hợp với ý mình liền chán ghét. Điều đó gọi là khởi tâm động niệm, là không có định. Đức Phật dạy chúng ta cần có định, định là gì? Là khi thấy điều vừa ý mình thì không sanh khởi tâm tham ái, nhất định không có tâm tham luyến, khi thấy điều không vừa ý mình cũng không có tâm chán ghét. Vĩnh viễn giữ gìn tâm thanh tịnh bình đẳng, điều này gọi là thiền định, nhất định không bị bất kỳ sự cám dỗ nào. Tại sao người thế gian bị cám dỗ vậy? Do người thế gian có tự tư, chỉ cần có tự tư thì công phu thiền định của bạn không còn nữa, bạn muốn tu hành thế nào cũng không tu hành được, nếu muốn tu thành thiền định thì nhất định phải xả bỏ tự tư tự lợi. Kinh Kim Cang Bát Nhã dạy chúng ta nguyên tắc tu học căn bản, đó là phải xa lìa bốn tướng, bốn tướng đầu tiên là ngã tướng, cần phải vô ngã, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng thì thiền định của bạn rất dễ tu thành công. Chỉ cần bạn có bốn tướng này, bạn chấp trước bốn tướng này, phân biệt bốn tướng này thì thiền định của bạn sẽ không thành công. Thiền định ba-la-mật hay nói cách khác chính là trong tâm của chính mình có sự kiểm soát, không bị cám dỗ từ bên ngoài, cũng không bị phiền não quấy rối. Nói cách khác, ý niệm thị phi nhân ngã, tham sân si mạn vĩnh viễn không khởi, sẽ không khởi cái ý niệm này. Đây là định. Bạn không bị sự cám dỗ của hết thảy pháp thế xuất thế gian thì đây là thiền. Phật đến nhưng không bị sự cám dỗ của Phật, ma đến cũng không bị cám dỗ của ma. Bát nhã ba-la-mật là trí huệ, là rõ ràng minh bạch đối với bên trong cũng như bên ngoài, một chút cũng không mê hoặc. Đây chính là thiền định, gọi là bát nhã ba-la-mật. Phật dạy chúng ta trong cuộc sống, trong công việc, xử sự đãi người tiếp vật phải giữ vững sáu nguyên tắc này. Nếu có thể thực hiện được sáu nguyên tắc này thì bạn được gọi là Bồ-tát, bạn không phải là phàm phu. Hết thảy các vị Bồ-tát đều phụng hành sáu điều này, sáu điều này đối với các Ngài mà nói, bất luận Ngài là thân phận gì, đang làm ngành nghề gì, đang làm công việc gì, Ngài đều có thể thực hiện, Ngài đều làm được. Trước đây khi tôi ở Mỹ từng lấy thí dụ về người phụ nữ trong gia đình làm thế nào phụng hành sáu ba-la-mật, người phụ nữ trong gia đình là Bồ-tát. Vào tháng mười, khi tôi giảng pháp ở Kuala Lumpur, cư sĩ Lý Kinh Hữu kinh doanh một khách sạn, tôi bảo ông: chủ khách sạn thực hiện sáu ba-la-mật thì khách sạn của ông là đạo tràng, người chủ là Phật, nhân viên của ông là Bồ-tát. Không cần phải thay đổi phương thức cuộc sống của ông, không phải thay đổi công việc của ông, chỉ cần ông có thể hiểu được thì lắc mình biến một cái liền thành Phật Bồ-tát rồi. Nếu bạn không hiểu được thì bạn là người thế gian. Khi bạn hiểu được thì đó là đạo tràng lớn mà bạn ở đó tu hành lục ba-la-mật. Tôi có một bài diễn giảng, các bạn đồng tu đã làm thành đĩa VCD rồi, cho nên những giáo huấn này, bất luận bạn là thân phận gì, bất luận bạn là ngành nghề gì đều sẽ giúp bạn làm được đến hoàn hảo. Thế nên Phật pháp là giáo học trí huệ cao độ, là giáo học đức năng viên mãn.

/ 128