THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 15
Các vị đồng học, xin chào mọi người!
Về câu “tích đức lũy công”, Vựng Biên đã trích dẫn “Phương pháp tích thiện” mà trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn đã nói. Một người tu hành, người tu hành chính là lập chí muốn làm một người tốt, tu sửa lại những hành vi không tốt. Muốn thật sự đạt đến mục tiêu này thì trước tiên phải có năng lực phân biệt rõ ràng thiện ác. Thiện thì có chân có giả, có đoan có khúc, có âm có dương. Tiếp theo dưới đây nói, còn có đúng, có sai, có lệch, ngay, có vơi, đầy. Nếu bạn nhận thức không rõ ràng, thấy ác cho là thiện, thấy thiện cho là ác, sự việc này thường hay xảy ra, rất có thể đã xảy ra ngay trên chính bản thân mình. Cả đời mình thường mong cầu đoạn ác tu thiện, nhưng trên thực tế việc mình làm lại là đoạn thiện tu ác, hoàn toàn trái nghịch.
Chúng ta thường hay thấy Đức Thế Tôn ở trong kinh luận rất cảm khái mà nói là “kẻ đáng thương xót”. Những người này thật là đáng thương, không thể phân biệt rõ ràng đúng sai, thiện ác. Lý lão sư trước đây nói càng khiến người ta tỉnh ngộ. Không những là bạn không phân biệt được tà chánh, thị phi, mà lợi hại bày ra ngay trước mắt bạn cũng không nhận ra được. Cho nên bạn tạo nghiệp, chịu báo ứng rất khổ. Không những Phật pháp nói rất rõ ràng, rất thấu triệt sự việc trong trời đất mà người thiện thế gian, Thánh Hiền của thế gian cũng đã nói không ít. Những lời mà họ nói có phải là lời chân thật không?
Từ xưa đến nay, ở thế gian này, lịch sử của Trung Quốc là tương đối hoàn chỉnh. Từ ba đời Hạ, Thương, Chu cho đến hiện nay đều có ghi chép tỉ mỉ chính xác. Chúng ta gọi nó là tín sự, nghĩa là việc có thể tin cậy được. Đặc biệt là đối với ghi chép về nhân quả báo ứng thì càng tỉ mỉ, chính xác hơn. Từ những sự thật này, chúng ta cũng chứng minh được giáo huấn của Phật Bồ-tát, cổ Thánh tiên Hiền là chân thật không hư. Trong việc luận về đúng sai của thiện ác, người xưa có tiêu chuẩn là: “Bất luận hiện hành, nhi luận lưu tế” (không bàn về hiện tại, mà bàn xem việc ấy gây nên hậu quả về sau như thế nào). Cái tầm nhìn này thật là nhìn được sâu, thấy được xa. Rốt cuộc là thiện hay ác, không phải chỉ nhìn ở bên ngoài, không phải chỉ thấy trước mắt. Hậu quả, nếu dùng cách nói hiện nay, là sự ảnh hưởng của họ đối với xã hội, đối với không gian và thời gian, phải từ chỗ này mà quan sát.
Trước mắt là việc thiện, là việc tốt, nhưng sự ảnh hưởng về sau là không tốt. Chúng ta nêu ra một thí dụ, cư sĩ Vương Long Thư hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, đó là việc tốt, có biết bao nhiêu người tán thán. Ngụy Mặc Thâm cũng hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập của cư sĩ Vương thì được đưa vào Long Tạng (bộ Đại tạng kinh được khắc in vào đời vua Càn Long). Vào thời xưa, viết sách có thể được nhập vào Tạng, đó là bản hoàn thiện được mọi người công nhận. Vì sao Ấn Quang Đại sư lại phê bình nghiêm khắc ông Vương Long Thư? Đại sư nói ông đã sửa đổi chữ ở trong bản dịch gốc. Chữ mà ông đã sửa đổi rất hay, đây là thiện. Thế nhưng Ấn Quang Đại sư nói ông là ác. Ác ở chỗ nào vậy? Ấn Quang Đại sư nhìn ra được cái hại về sau, chính là sự ảnh hưởng của việc này. Vương Long Thư có thể sửa kinh, tôi cũng có thể sửa kinh, bạn cũng có thể sửa kinh. Mỗi người đều sửa một chút chỗ không hợp ý mình trong kinh điển thì kinh này lưu truyền đến đời sau đã thay đổi hoàn toàn rồi!
Sự phản đối của Ấn Quang Đại sư, không phải phản đối ông Vương Long Thư không được hội tập, hội tập hoàn toàn không bị phản đối, mà là không được sửa đổi chữ ở trong kinh. Chữ ở trong kinh tuy không hay nhưng không được sửa. Khi sửa thì sợ sẽ tạo sự ảnh hưởng. Long Thư sửa thì không có vấn đề gì, vì người ta có học vấn, có tu trì, thật sự có thể sửa được tốt. Chúng ta là người đời sau thấy ông sửa được, thế thì tôi cũng sửa được. Tôi đọc thấy câu này đọc không suông, là vì trình độ tôi chưa đủ, liền sửa cái chữ khó này thành chữ khác cho dễ đọc, cứ theo ý mà sửa, thế thì có nguy hiểm hay không? Cho nên không thể tùy tiện theo ý của mình. Tùy tiện theo ý của mình, thì sai rồi. Ngay cả như Long Thư, Ngụy Nguyên (tức Ngụy Mặc Thâm), bậc đại hiền như vậy mà Ấn Quang Đại sư còn quở trách họ, dù cho họ đối với Tịnh Độ tông quả thật là có cống hiến, có công lao.