/ 1
2.235

PHẬT THUYẾT THANH TỊNH TÂM KINH

GIẢNG KÝ[1]

Lão Pháp Sư Tịnh Không chủ giảng

Năm 1992 tại Đại Giác Liên Xã, Cựu Kim Sơn, Hoa Kỳ

Tâm Tịnh ghi, Hàn Anh kiểm giảo

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”. Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu.

Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.


Chánh kinh:

Phật Thế Tôn, nhất thời tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, dữ tỳ-kheo chúng câu.

(Một thời, đức Phật Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, cùng các vị tỳ-kheo câu hội)


Đoạn kinh văn này phần đầu thiếu mất câu “như thị ngã văn” là vì kinh điển được phiên dịch trong giai đoạn sơ khởi chẳng tuân thủ thể lệ chánh quy, nhưng Lục Chủng Thành Tựu vẫn đầy đủ [như các kinh dịch trong các giai đoạn về sau]. Phật Thế Tôn là Chủ Thành Tựu, “nhất thời” là Thời Thành Tựu, “tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên” là Xứ Thành Tựu, chỗ này rất quen thuộc đối với chúng ta, kinh Di Đà cũng được tuyên giảng tại đây. “Dữ tỳ-kheo chúng câu” là Chúng Thành Tựu. Sáu thứ này hoàn toàn đầy đủ.

Đoạn thứ hai thuộc về phần Chánh Tông của kinh này. Luận về thể lệ phiên dịch kinh điển quen dùng, phàm đầu đề mục kinh nào có đề hai chữ “Phật Thuyết” thì chứng tỏ kinh ấy do chính đức Phật nói, chứ chẳng phải là người nào khác nói. Kinh này giống hệt như kinh Di Đà, không có ai khải thỉnh, đức Phật tự nói ra, kinh điển Vô Vấn Tự Thuyết (không ai hỏi mà tự nói) nhất định rất trọng yếu.

Trong nền giáo dục Phật giáo, nói thật ra, “tâm thanh tịnh” là một đề mục giáo dục tối trọng yếu. Chẳng cần biết tông nào, pháp môn nào, chỉ có phương pháp sai biệt, chứ mục tiêu tu học hoàn toàn nhất trí, tức là phải tu sao cho tâm thanh tịnh. Tịnh Độ Tông gọi tâm thanh tịnh là “nhất tâm bất loạn”, cũng như nhà Thiền gọi là “thiền định”, bên Giáo gọi là “chỉ quán”, còn như Mật giáo gọi là “tam mật tương ứng”. Toàn bộ những danh từ ấy chỉ là tên gọi khác nhau của tâm thanh tịnh mà thôi. Bởi thế, đối với việc giáo dục, dù chẳng ai khải thỉnh, Ngài cũng đặc biệt nêu ra để dạy dỗ.


Chánh kinh:

Phật cáo chư tỳ-kheo ngôn:

(Phật bảo các tỳ-kheo rằng)


Đây là Phật bảo cùng đại chúng xuất gia.


Chánh kinh:

Nhữ đẳng đế thính!

(Các ông lắng nghe)


“Đế thính” là nghe thật kỹ càng, nỗ lực lắng nghe.


Chánh kinh:

Nhược chư Thanh Văn tu tập chánh hạnh, dục đắc thanh tịnh tâm giả.

(Nếu các Thanh Văn tu tập chánh hạnh, muốn đạt được tâm thanh tịnh)


Trước hết, Ngài nêu lên đề mục giảng dạy. Chữ “chư Thanh Văn" chỉ các vị học pháp Tiểu Thừa; từ Sơ Quả cho đến Tứ Quả hoàn toàn bao gồm trong loại này.

“Tu tập chánh hạnh”: Chúng ta biết Chánh Hạnh của người tu Tiểu Thừa là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, trung tâm là Bát Chánh Đạo. Thật ra, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo không phải chỉ dành riêng cho người học Tiểu Thừa, người học Đại Thừa cũng chẳng thể thoát ra ngoài được. Chúng ta thấy trong trước tác của Thiên Thai đại sư, Tứ Niệm Xứ được phân thành bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên để giảng. Tứ Niệm Xứ của Tạng Giáo đương nhiên là Tiểu Thừa; Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo thuộc về Đại Thừa. Tiểu Thừa có Tứ Niệm Xứ; Đại Thừa cũng có Tứ Niệm Xứ. Tiểu Thừa có Bát Chánh Đạo, Đại Thừa có lúc nào không có Bát Chánh Đạo? Do đó biết là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm chung cho hết thảy Phật pháp, chẳng riêng gì Đại Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển, Mật thảy đều viên mãn đầy đủ. Nhìn từ góc độ này, lời Phật khai thị vừa sâu vừa rộng, nào phải chỉ hạn cuộc nơi Tiểu Thừa Thanh Văn; chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này.

Nguồn: www.niemphat.net

/ 1