/ 7
10

PHẬT THUYẾT BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC KINH

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Địa điểm: Hội quán Hòa Thuận, viện Tri Ân Nhật Bản

Thời gian: 02/11/2002

Việt dịch: BBD Pháp Âm Tuyên Lưu

Tập 1


Chư vị pháp sư, chư vị đồng học.

Lần này là lần đầu tiên chúng ta tổ chức đại hội giảng kinh hoằng pháp ở viện Tri Ân Nhật Bản. Hôm nay, chúng ta nhìn thấy bản kinh này, đây là bản mà tôi mới nhìn thấy hai ngày hôm nay. Bát Đại Nhân Giác Kinh Giảng Ký là trước đây giảng ở Đài Loan, có bút ký của cư sĩ Hàn Anh. Lần này, chúng ta sẽ dùng bản này, cũng là kỷ niệm lão cư sĩ Hàn Anh. Phật pháp, bất luận là kinh điển đại thừa hay tiểu thừa, có thể nói từng câu từng chữ đều là hàm chứa vô lượng nghĩa. Lần này, bởi vì thời gian của chúng ta hạn chế, cho nên chỉ giới thiệu giản lược bộ kinh này với quý vị. Thời gian tuy ngắn nhưng cũng phải giảng viên mãn bộ kinh này. Đây là quy tắc nhất định.

Lần này cử hành pháp hội ở nơi đây, nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của hai vị là tiên sinh Thủy Cốc và lão pháp sư Trung Thôn, có thể giảng giải kinh điển Phật pháp ở trong tự viện, nhân duyên thật vô cùng thù thắng. Chúng tôi luôn hy vọng có thể đem giáo học Phật pháp làm hưng vượng trở lại từ trong tự viện. Vừa rồi chúng tôi nghe bài diễn văn của tiên sinh Thủy Cốc và lời phát biểu của pháp sư Diêm (đại diện của lão hòa thượng); do đó chúng tôi có thể khẳng định, những nhân sĩ nổi tiếng trong giới Phật giáo Nhật Bản cũng đều vô cùng khẳng định đối với việc hoằng dương kinh giáo, lợi ích chúng sanh. Chúng tôi nghe xong cũng vô cùng hoan hỷ, cũng vô cùng tôn trọng, muốn dốc hết chút sức hèn mọn này của chúng tôi, tập hợp sức mạnh này, hy vọng có thể đem Phật pháp mở rộng đến toàn thế giới. Chúng ta tưởng tượng đến Thế Tôn năm xưa khi còn ở đời, từ sau khi thị hiện thành đạo liền bắt đầu làm công tác dạy học, mọi người đều biết, gọi là “giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm”. Từ hai câu nói này thì chúng ta có thể sâu sắc thể hội được, Thế Tôn năm xưa khi còn ở đời, có thể nói là cả đời làm công tác dạy học, 49 năm chưa từng gián đoạn, chưa từng ngưng nghỉ. Đây là điều mà chúng ta cần phải ghi nhớ, cần phải noi theo.

Lần này, chúng tôi có nhân duyên thù thắng, đã ở lại năm ngày tại viện Bổn Giác, núi Cao Dã, ở bên đó giảng giải Tam phước trong Quán kinh với mọi người, giới thiệu về tâm yếu truyền pháp của đại sư Ấn Quang. Nói rõ cùng quý vị, chư Phật Bồ-tát, các ngài khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều là tự nhiên lưu lộ từ tự tánh, tánh đức. Hay nói cách khác, có thể tùy thuận tánh đức thì gọi là Phật Bồ-tát. Trái ngược tánh đức, đây là phàm phu. Cho nên, học Phật chính là phải học theo Thế Tôn, học theo tổ sư đại đức, chúng ta phải học giống hệt với các ngài, đây gọi là chân thật học Phật. Sau khi làm được, rồi có thể nói, làm được rồi sau đó mới nói, đây chính là thánh nhân. Sau khi nói được, rồi có thể làm được, đó gọi là hiền nhân. Nói được mà làm không được, lời tôi nói đây không dễ nghe lắm, đó gọi là lừa người, gọi là lừa mình dối người. Cho nên giáo học Phật pháp, đức hạnh được xếp ở vị trí quan trọng nhất. Không những là Phật pháp, mà giáo học nhà Nho cũng xếp đức hạnh ở vị trí hàng đầu. Bốn khoa của Khổng tử, đứng đầu là đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, thứ ba là chánh sự, thứ tư mới là văn học. Cho nên, thánh nhân thế gian hay xuất thế gian giáo hóa, cái dụng tâm lập ý đó chúng ta không thể không hiểu rõ. Không hiểu rõ thì bạn học tập sẽ không biết bắt đầu từ đâu. Cho nên, chúng ta phải đặc biệt xem trọng việc tu dưỡng đạo đức.

Phật giáo là giáo dục của Phật-đà, là nền giáo dục chí thiện viên mãn của Phật-đà đối với chúng sanh trong chín pháp giới, đây là điều mà chúng ta phải khẳng định đầu tiên, phải nhận thức rõ ràng, rồi sau đó mới không đến nỗi đi sai đường. Kinh điển chính là giáo học của Phật. Dùng lời hiện nay để nói chính là sách giáo khoa trong giáo dục của Phật-đà. Bộ kinh này được phiên dịch vào thời kỳ đầu. Cho nên, chúng ta xem thấy thể lệ dịch kinh, mỗi bộ kinh khi vừa mở đầu thì nhất định có “như thị ngã văn”, nhất thời Phật tại nơi nào đó, cùng với những thính chúng nào đó. Những ghi chép như vậy trong kinh văn này đều không có. Đây là thời kỳ đầu khi Phật giáo vừa mới đến Trung Quốc, thể lệ dịch kinh vẫn chưa được xây dựng. Bộ kinh này chúng ta xem từ trong nội dung, đại khái là do đại sư An Thế Cao phiên dịch, từ những pháp mà Phật đã nói trong 49 năm trích lục ra được tám điều quan trọng nhất, trích lục được tám điều để giới thiệu đơn giản nhất cho chúng ta, là tính chất như vậy. Tính chất rất tương đồng với kinh Tứ Thập Nhị Chương. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải là bộ kinh do Phật nói ra, mà đều là được trích lục từ trong tất cả kinh điển, trích lục được 42 điều, đó là Trúc-pháp-lan và Ma-đằng phiên dịch. Kinh Phật phiên dịch, bộ đầu tiên là kinh Tứ Thập Nhị Chương. Hai bộ này thời gian [phiên dịch] rất gần nhau, bộ này đơn giản hơn so với kinh Tứ Thập Nhị Chương. Có thể nói là yếu lược của Phật học, là yếu lược được trích lục ra từ trong kinh điển. Hai điều phía trước là pháp tiểu thừa, sáu điều phía sau là pháp đại thừa, có thể nói là giới thiệu được tương đối viên mãn, vô cùng tinh yếu, rất đáng để chúng ta học tập. Đặc biệt là người mới học Phật pháp. Chúng ta nói với họ những gì vậy? Mấy điều này là thích hợp nhất.

/ 7