2 Thứ Hai, 18/08/2025, 14:39

Kính thưa Thầy và các Thầy Cô!

Chúng con xin phép chia sẻ một số nội dung chính mà chúng con ghi chép trong bài Thầy Vọng Tây giảng từ 4h50’ đến 6h00’, sáng thứ Bảy, ngày 09/08/2025.

****************************

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

BÀI 158

NIỆM PHẬT THẾ NÀO CHO ĐÚNG

Tổ Sư Đại Đức thường nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Ngày nay, có rất nhiều người niệm Phật nhưng rất ít người vãng sanh. Hòa Thượng từng nói, học trò của Ngài Lý Bỉnh Nam có khoảng 300.000 người nhưng chỉ có khoảng 30 người vãng sanh. Thời của Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã cách đây gần 100 năm, khi đó chưa có Internet, mạng xã hội, ngày nay, tâm người bị xen tạp rất nhiều nên số người có thể vãng sanh ngày càng ít.

Hòa Thượng nói: “Có một đồng tu hỏi tôi, niệm Phật như thế nào thì công phu mới có lực. Câu hỏi này rất hay đây là một vấn đề quan trọng”. Người có tâm khẩn thiết, muốn ra khỏi luân hồi thì sẽ hỏi những câu hỏi ý nghĩa như vậy.

Hòa Thượng nói: “Tổ Sư Đại Đức nói với chúng ta, có thể vãng sanh được hay không quyết định ở chỗ có tín, có nguyện hay không, chúng ta phải tin sâu, nguyện thiết. Phẩm vị cao hay thấp quyết định ở công phu sâu hay cạn”. Những tháng gần đây, ngoài viết chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, tôi viết chữ “Tín - Nguyện - Hạnh”, tin sâu, nguyện thiết, hành miên mật để nhắc nhở mình đã thật tin, thật nguyện, thật hành hay chưa! Chúng ta qua loa, phóng túng thì chúng ta sẽ giống như Ngài Lý Bỉnh Nam nói: “Đáng sinh tử như thế nào phải sinh tử như thế đó, đáng đọa lạc như thế nào thì phải đọa lạc như thế đó”.

Tín - Nguyện - Hạnh là ba tư lương của Tịnh Độ cũng giống như cái kiềng ba chân, thiếu một chân thì chiếc kiềng không thể đứng vững. Chúng ta phải nguyện nếu còn sống ở thế gian thì phục vụ chúng sanh, nếu rời khỏi thế gian thì chỉ có một hướng Tây Phương Cực Lạc để đi, không cầu phước báu Trời Người, không cầu vinh hoa phú quý, khoẻ mạnh sống lâu, tất cả đều để Phật A Di Đà an bài.

Hòa Thượng nói: “Trong ba bậc vãng sanh có thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, thượng phẩm hạ sanh; trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung sanh, trung phẩm hạ sanh; hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, hạ phẩm hạ sanh.Trên “Kinh Vô Lượng Thọ” Thế Tôn dạy chúng ta: “Phát Tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”. Nguyện thứ 18 dạy chúng ta “Nhất hướng chuyên niệm”, nguyện thứ 19 dạy chúng ta “Phát Tâm Bồ Đề”.

Hôm trước chúng ta học “Thập Thiện Nghiệp Đạo”, Hòa Thượng nói một cách hết sức rõ ràng, “Tâm Bồ Đề” là tâm vì chúng sanh. Chúng ta thật làm nhưng trong tâm không vướng mắc, dính bận; trong lòng chúng ta chỉ có một câu “A Di Đà Phật”, chỉ có một hướng Tây Phương Cực Lạc để đi. Có nhiều người nghe Tổ Sư Đại Đức nói: “Tâm Bồ Đề là tâm một lòng hướng về, cầu sanh thế giới Tây Phương” nên họ không làm bất cứ việc gì giúp ích cho chúng sanh.

Tổ Sư Ấn Quang là Tổ thứ 13 của Tịnh Độ, cả đời Ngài tích cực in sách thiện làm ra tấm gương niệm Phật cho mọi người; Ngài nói tiếng địa phương nặng, mọi người nghe không hiểu nên Ngài ít đi giảng Kinh, nói pháp. Tiếng địa phương của tôi cũng rất nặng, một số người miền Bắc nói rằng giọng của tôi nghe như tiếng chim nên họ nghe không hiểu. Khi có thiên tai, bão lũ thì Tổ Sư Ấn Quang trích một phần tiền in Kinh sách đi cứu giúp người khổ nạn. Hòa Thượng Hải Hiền niệm Phật trong suốt 92 năm, Ngài tích cực khai khẩn đất đai, trồng trọt nhiều tấn ngũ cốc để cúng dường xã hội đại chúng, các Ngài tu hành nhưng không rời xa xã hội. Trong suốt 72 năm tu hành, Hòa Thượng Tịnh Không bôn ba khắp nơi trên thế giới, nếu Hòa Thượng không bôn ba thì chúng ta không có cơ hội được nghe lời dạy của Ngài. Hòa Thượng là tấm gương tu hành, tấm gương đối nhân xử thế tiếp vật cho chúng ta. Nếu như tu hành mà không cần làm gì thì năm xưa, Thích Ca Mâu Ni Phật đã không cần phải bôn ba suốt 49 năm để tiếp độ chúng sanh.

Hòa Thượng nói: “Tâm Bồ Đề” là tâm chân thật giác ngộ, thể của nó là tâm chí thành. Cái gì gọi là thành? Ngài Tăng Quốc Phiên nói: “Nhất niệm bất sanh tất vị thành”. Một niệm không sanh mới gọi là thành. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, chúng ta vọng niệm triền miên vậy thì tâm chúng ta không thể thành”. Hằng ngày, chúng ta luôn khởi vọng niệm triền miên, vọng niệm này chưa dứt thì đã tiếp nối bằng vọng niệm khác. Chúng ta có thể làm được rất nhiều việc cho xã hội nếu chúng ta không khởi vọng niệm được mất, hơn thua, lời lỗ, tốt xấu. Thí dụ, chúng ta cho rằng nếu chúng ta làm công việc đó thì cả cuộc đời chúng ta sẽ thiệt thòi nên chúng ta không làm. Chúng ta có ý niệm sợ thiệt thòi là do chúng ta quên mất rằng vận mạng của chúng ta là do phước báu định đoạt.