KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM PHỔ MÔN - BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Tập 1
Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài Loan
Bài giảng thứ nhất - Tháng 12 năm 1983
Số lưu trữ: 08-004-0001
Hòa Thượng Tịnh Không chủ giảng
(Nguyễn Minh Tiến dịch)
Trong khóa tu Phật thất Quán Âm lần này, để có sự tương ứng giữa học tập và hành trì nên trong suốt 7 ngày, mỗi ngày đều sẽ có 4 giờ nghe giảng kinh và 4 giờ xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát [Quán Thế Âm].
Trong lúc nghe giảng kinh, mỗi người đều có bản sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành của Pháp sư Đại Nghĩa đời nhà Thanh đặt trước mặt. Sau khi hoàn tất Pháp hội này, bản kinh đó sẽ được tặng cho quý vị mang về để kết duyên.
Cho nên, trong lúc nghe giảng kinh, tốt nhất là quý vị nhìn vào trong bản kinh của mình để theo dõi. Nếu thấy chỗ nào quan trọng cần lưu ý thì có thể [dùng bút] ghi chú thẳng vào đó, vì tương lai bản kinh ấy sẽ là của quý vị mang theo về nhà.
Khi chuẩn bị giảng kinh, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ qua với quý vị về tiêu đề của kinh. Đề kinh nằm trong quyển thượng, và cả hai quyển thượng, hạ đều đã sẵn có trước mặt quý vị. Để bắt đầu đi vào giảng giải, trước hết tôi sẽ liệt kê những điểm đại cương. Phần đại cương này cũng đã được cung cấp đến cho quý vị rồi.
Tiêu đề kinh nằm trong quyển thượng, ở trang 130. Quý vị có thể mở quyển kinh ra, tìm đến trang 130, xem ở dòng thứ 5: “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”.
Phần chú giải của Pháp sư Đại Nghĩa quả thật rất đáng ngợi khen xưng tán. Bản chú giải này có tên gọi là “đại thành”, nghĩa là thành tựu lớn, hàm ý là Pháp sư đã sưu tập tất cả những chú giải của người xưa mà hợp thành bản chú giải này.
Về phương thức chú giải của Pháp sư thì không theo thông lệ của tông Thiên Thai, mà chọn phép “Thập môn khai khải” của tông Hoa Nghiêm, trong phần huyền nghĩa chúng ta có thể thấy được điều đó.
Lần này chúng tôi sẽ không giảng giải phần huyền nghĩa, bởi vì không đủ thời gian. Việc giảng kinh trong khóa tu này chỉ có 12 lượt, mỗi lượt được 2 giờ đồng hồ. Cho nên chúng ta đành phải lược bớt đi phần giảng giải về huyền nghĩa.
Nhưng về đề kinh thì nhất thiết phải giảng giải. Đi vào giải thích đề kinh, xin mời quý vị mở đến trang 132. Xin mở ra trang 132, xem đến hàng cuối cùng, trong đó có chữ “diệu” (妙), nghĩa là mầu nhiệm, huyền diệu. “Diệu thị năng tán chi từ - 妙字是能讚之辭”. (Chữ diệu này là từ ngữ có thể dùng để xưng tán, khen ngợi.) Tiếp theo xem đến chữ “pháp” (法). Chữ “pháp” thì cũng tại trang này nhưng xem ngược từ bên trái qua ở hàng thứ tư, trong câu cuối hàng là chữ thứ tư [từ dưới lên]. “Pháp tức thập giới thập như quyền thật chi pháp - 法即十界十如權實之法”. (Pháp tức là pháp quyền và thật của mười giới và mười như.) Đó là đề mục thảo luận trung tâm trong kinh Pháp Hoa. “Mười giới” tức là mười pháp giới, “mười như” tức là mười như thị. Trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, ý nghĩa giảng giải không ra ngoài pháp quyền và pháp thật của mười pháp giới và mười như thị.
Lại nếu mang những ý nghĩa của pháp ấy mà quy nạp thì không ra ngoài ba pháp. Ba pháp đó là “chúng sinh pháp, Phật pháp và tâm pháp”.
“Ba pháp ấy vốn chỉ là một tâm”, trong đó tâm pháp là thể, còn chúng sinh pháp và Phật pháp đều là tướng, là dụng. Giác ngộ thì gọi là Phật pháp, si mê thì gọi là chúng sinh pháp.
Chúng ta xem qua đồ biểu giảng giải. Đồ biểu này, do người vẽ không thấu triệt ý nghĩa giáo pháp nên trong đó có nhiều nét vẽ không đúng.
Chẳng hạn như về tâm pháp, chúng ta xem thấy trên đồ biểu phía sau có dấu ngoặc cong mà đường thẳng vẽ quá ngắn, lẽ ra phải nối tiếp [đường vẽ] tâm pháp đến chỗ đó, vì tâm là thể.
Khi giác ngộ được tâm pháp thì tâm đó gọi là Phật pháp. Khi mê lầm tâm pháp thì tâm đó gọi là chúng sinh pháp. Vậy có thể thấy rằng, pháp vốn chỉ có một, lẽ nào lại có hai? Cho nên cả ba pháp [chúng sinh pháp, Phật pháp và tâm pháp] vốn chỉ là một tâm.
Phần bên trong dấu ngoặc nói rằng: “Kinh này là tâm tông của chư Phật.” Vì nhấn mạnh nơi tâm pháp nên mới có thể được tôn xưng là “vua trong các kinh, đứng đầu Tam tạng”. Ý nghĩa chính là ở chỗ này.
Khởi đầu phương tiện giảng giải, trước tiên phải giải thích về chữ “pháp”, sau đó sẽ tiếp tục nói rõ về sự mầu nhiệm của pháp như thế nào.