/ 51
334

KINH ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT BỔN NGUYỆN (Tập 21)

Kinh văn:

“PHỤC THỨ PHỔ QUẢNG. NHƯỢC HỮU THIỆN NAM TỬ, THIỆN NỮ NHÂN NĂNG ĐỐI BỒ-TÁT TƯỢNG TIỀN TÁC CHƯ KỸ NHẠC CẬP CA VỊNH TÁN THÁN, HƯƠNG HOA CÚNG DƯỜNG NÃI CHÍ KHUYÊN Ư NHẤT NHÂN ĐA NHÂN. NHƯ THỊ ĐẲNG BỐI HIỆN TẠI THẾ TRUNG CẬP VỊ LAI THẾ, THƯỜNG ĐẮC BÁCH THIÊN QUỶ THẦN NHẬT DẠ HỘ VỆ, BẤT LỆNH ÁC SỰ TRIẾP VĂN KỲ NHĨ, HÀ HUỐNG THÂN THỌ CHƯ HOẠNH”.

(Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có người thiện nam, người thiện nữ nào có thể đối trước tượng của Địa Tạng Bồ-tát mà trổi các thứ kỹ nhạc, ngâm ca khen ngợi, dùng hương hoa cúng dường, cho đến khuyến hóa được một người hay nhiều người. Những hạng người đó ở trong đời hiện tại cùng thuở vị lai sau, thường được trăm nghìn vị Quỉ Thần ngày đêm hộ vệ còn không cho những việc hung dữ đến tai người đó, huống là để cho người đó phải chịu các tai vạ bất ngờ).

Trong "Kinh Địa Tạng" chúng ta xem thấy rất nhiều cách thức cúng Phật. Chỗ này là dùng kỹ nhạc. “Kỹ” chính là chúng ta hiện nay gọi là ca múa, âm nhạc. Ở trong Phật Pháp Đại Thừa, chúng ta xem thấy trong những bức tranh biến tướng đồ vẽ Thế Tôn hoằng pháp vào thời cổ đại, chư thiên ca hát, nhảy múa để cúng dường khi Thế Tôn đang giảng Kinh thuyết pháp. Những sự việc này là nhất định không có trong Phật pháp Tiểu Thừa. Như “Bát Quan Trai Giới”, “Sa Di Giới”, “Tỳ Kheo Giới” tuyệt đối ngăn cấm đến những chỗ ca múa, nhưng Bồ-tát Đại Thừa thì khác. Chúng ta có thể thấy vô cùng rõ ràng, Tiểu Thừa là phương tiện thiện xảo mà Phật thiết lập ra đối với xã hội bảo thủ, đối với người bảo thủ. Phật pháp Đại Thừa là đối với xã hội cởi mở, là đối với những chúng sanh cởi mở này. Đây là chứng tỏ Phật quả thật không có pháp cố định, không có pháp nhất định, Phật giáo hóa chúng sanh đều là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Chúng ta thấy ở trong "Kinh Hoa Nghiêm" đặc biệt nói rất rõ ràng những chỗ này, Ngài thật sự là ứng cơ. Phật đương nhiên là có trí tuệ, có đức năng, Ngài nhìn một chúng sanh có thể nhìn thấy nhân duyên vô lượng kiếp về trước. Chúng ta không có năng lực này. Cho nên Phật nhiếp thọ chúng sanh, Ngài dùng tứ nhiếp pháp rất viên mãn. Sau cùng của Tứ Nhiếp Pháp là lợi hành, đồng sự. Đồng sự đây là cởi mở. Nếu như không cởi mở thì sao có thể đồng sự với chúng sanh được? Đây là trí tuệ cao độ, thiền định rất sâu, Ngài có thể thuận chúng sanh, có thể ở trong đó dẫn dụ chúng sanh, khiến cho chúng sanh giác ngộ, khiến cho chúng sanh quay đầu, cải tà quy chánh, đoạn ác tu thiện, Phật có năng lực này. Nếu như mình không có trí tuệ, không có định công, mà cũng muốn học làm như thế này thì rất khó chống lại sự cám dỗ của cảnh giới bên ngoài. Có rất nhiều người không đủ định tuệ, bị cảnh giới bên ngoài cám dỗ mà thối chuyển, mất đạo tâm, chúng ta thấy nhan nhản khắp nơi, từ thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni đến nay mỗi thời đại đều có. Người xuất gia đọa lạc, người xuất gia hoàn tục, thực ra hoàn tục vẫn tốt hơn so với đọa lạc. Họ từ bỏ hình ảnh người xuất gia để hoàn tục làm người tu hành tại gia, cũng tốt, cũng có thể thành tựu. Cho nên xuất gia ở trong cửa Phật hoàn tục là một hiện tượng rất bình thường, cũng là hiện tượng tốt, chúng ta không nên nhìn bằng ánh mắt khác, như vậy thì bản thân chúng ta có tội. Như hiện nay những quốc gia Tiểu Thừa, họ có hình thức xuất gia trong thời gian ngắn. Ở Thái Lan ngay cả Vua cũng phải xuất gia ba tháng, sau ba tháng lại hoàn tục. Đây là tiếp nhận nền giáo dục Phật giáo, sống đời sống Phật giáo, điều này chắc chắn có lợi ích, giúp ích đối với xã hội.

Đoạn này là nói rõ phước báo có được khi dùng ca múa, âm nhạc cúng dường Bồ-tát. Đoạn phía trước là nói cúng dường, đoạn phía sau là nói họ được phước. Từ đoạn Kinh văn này, chúng ta cũng có thể thể hội được, và suy rộng ra dùng cách thức nghệ thuật để hoằng pháp lợi sinh. Ở trong "Đại Tạng Kinh", tôi xem thấy ở trong “Gia Khánh Tạng”, “Gia Khánh Tạng” là biên tập vào thời Minh, “Tạng Kinh” rất dày, hiện nay là đóng bìa cứng, đại khái là hai cuốn dày cỡ này. Nội dung là gì? Toàn là ca từ, phổ nhạc, ca từ phổ thành nhạc, cũng có thể biểu diễn. Từ đó cho thấy, thời xưa dùng cách thức này để khuyến hóa chúng sanh là việc rất thường thấy. Bởi vì chúng sanh thích tiếp nhận cách thức này, biên tập thành kịch bản để biểu diễn tương đối ít. Tại sao vậy? Phải nhiều điều kiện, không phải một người, vài người là có thể làm được. Một vài người dùng ca hát, loại biểu diễn nghệ thuật dân gian này, vào thời xưa là rất thường thấy, đặc biệt là biểu diễn trong pháp hội. Bởi vì lúc có pháp hội thì người nhiều, dùng cách thức này để tuyên dương Phật pháp, dùng phương thức này để khuyến hóa chúng sanh, là một cách thuyết pháp hay vô cùng. "Kinh Địa Tạng", nếu như chúng ta đem những câu chuyện về Quang Mục Nữ, Bà La Môn Nữ ở phía trước này, dùng phương thức ca múa, kịch tuồng để biểu diễn ra, thì hiệu quả sẽ lớn hơn rất nhiều so với chúng ta giảng Kinh trên bục giảng. Đường lối này hy vọng các đồng tu phải nhớ kỹ. Chúng tôi ngày nay là lực bất tòng tâm. Nếu như có đủ điều kiện thì phải đem Phật pháp Đại thừa lên sân khấu. Nếu như có dựng thành phim truyền hình nhiều tập, chiếu trên đài truyền hình, bạn thử nghĩ xem sẽ giáo hóa được bao nhiêu chúng sanh? Sẽ nhận được sự hoan nghênh của đại chúng khắp nơi. Đây là điều chúng ta cần phải nghĩ đến.

/ 51