A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA HỘI BỔN
阿彌陀經疏鈔演義會本
Phần II
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
(Minh Cổ Hàng Vân Thê Tự sa-môn Châu Hoằng thuật)
(明古杭雲棲寺沙門袾宏述)
(Minh Vân Thê Tự Cổ Đức pháp sư diễn nghĩa)
(明雲棲寺古德法師演義)
Môn nhân Từ Phàm, Trí Nguyện định bổn
門人慈帆智願定本
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến - Huệ Trang - Đức Phong
(Sao) Thuyết pháp giả, Đại Bổn vân: “Vi lan hồi lưu, chuyển tương quán chú, bất trì, bất tật, an tường từ thệ. Ba dương vô lượng tự nhiên diệu thanh, hoặc văn Phật thanh, hoặc văn Pháp thanh, hoặc văn Tăng thanh, tịch tĩnh thanh, Không Vô Ngã thanh, đại từ bi thanh, Ba La Mật thanh, Thập Lực, Vô Úy, Bất Cộng pháp thanh, chư thông huệ thanh, vô sở tác thanh, bất khởi diệt thanh, vô sanh nhẫn thanh, nãi chí cam lộ quán đảnh, chúng diệu pháp thanh, xứng kỳ sở dục, vô bất văn giả, phát thanh tịnh tâm, thành thục chư căn, vĩnh bất thoái ư Vô Thượng Bồ Đề”. Thị thủy bổn vô tình, thiện năng thuyết chư diệu pháp dã.
(Diễn) Hoặc văn Phật, Pháp, Tăng thanh, Tam Bảo thanh dã. Tịch Tĩnh, Không, Vô Ngã thanh, Nhị Thừa thanh dã. Đại từ bi, Ba La Mật thanh, Bồ Tát thanh dã. Thập lực, vô úy, bất cộng thanh, Phật thanh dã. Chư thông huệ hạ, tế minh Bồ Tát thanh. Thông huệ, thông đồ chi huệ, Tam Hiền thanh dã. Vô sở tác, bất khởi diệt, Sơ Địa chí Thất Địa thanh dã. Dĩ thử chư địa, đoạn vô minh, chứng Pháp Tánh. Pháp Tánh bổn vô minh sở tác cập khởi diệt cố. Vô Sanh Nhẫn thanh, Bát Địa thanh dã. Dĩ Bát Địa Bồ Tát đoạn Câu Sanh Ngã Chấp, thân chứng Vô Sanh cố. Cam lộ quán đảnh, Đẳng Giác thanh dã. Đẳng Giác tương thành Phật thời, thập phương chư Phật dĩ trí huệ thủy, nhi quán kỳ đảnh, tức nhập Phật vị. Như Chuyển Luân Vương tương thiệu vương vị, dĩ thủy quán đảnh cố. Thành thục chư căn giả, chư căn tức Thanh Văn, Duyên Giác, cập chư vị Bồ Tát. Thượng, trung, hạ chư căn, giai đồng quy Nhất Thật dã. Thủy bổn vô tình, thiện năng thuyết pháp giả, thử độ chúng sanh, mê tâm trục cảnh, chư căn ám tắc, duy nhĩ sảo lợi, cố dĩ thanh vi giáo thể, duy văn hữu tình thuyết pháp. Bỉ độ chúng sanh, ký hội cảnh quy tâm, lục căn thông lợi. Cố lục trần giai vi giáo thể, căn căn tận nhập Viên Thông, bất độc hữu tình thuyết pháp, vô tình diệc giai thuyết pháp dã.
(鈔)說法者,大本云:微瀾洄流,轉相灌注,不遲不 疾,安詳徐逝。波揚無量自然妙聲,或聞佛聲,或聞法聲,或聞僧聲,寂靜聲,空無我聲,大慈悲聲,波羅密聲,十力無畏不共法聲,諸通慧聲,無所作聲,不起滅聲,無生忍聲,乃至甘露灌頂,眾妙法聲,稱其所欲,無不聞者,發清淨心,成熟諸根,永不退於無上菩提。是水本無情,善能說諸妙法也。
(演)或聞佛法僧聲,三寶聲也。寂靜空無我聲,二乘聲也。大慈悲波羅蜜聲,菩薩聲也。十力無畏不共聲,佛聲也。諸通慧下,細明菩薩聲。通慧,通途之慧,三賢聲也。無所作,不起滅,初地至七地聲也。以此諸地,斷無明,證法性。法性本無明所作及起滅故。無生忍聲,八地聲也。以八地菩薩斷俱生我執,親證無生故。甘露灌頂,等覺聲也。等覺將成佛時,十方諸佛以智慧水,而灌其頂,即入佛位。如轉輪王將紹王位,以水灌頂故。成熟諸根者,諸根即聲聞緣覺,及諸位菩薩。上中下諸根,皆同歸一實也。水本無情,善能說法者,此土眾生,迷心逐境,諸根暗塞,唯耳稍利,故以聲為教體,唯聞有情說法。彼土眾生,既會境歸心,六根通利。故六塵皆為教體,根根盡入圓通,不獨有情說法,無情亦皆說法也。
(Sao: “Thuyết pháp”, Đại Bổn nói: “Sóng nhẹ vờn quanh, lần lượt tưới rót lẫn nhau, chẳng chậm, chẳng nhanh, an tường thong thả lan tỏa. Tiếng sóng vỗ, phát ra vô lượng âm thanh mầu nhiệm, tự nhiên, hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng Pháp, hoặc nghe tiếng Tăng, tiếng tịch tĩnh, tiếng Không Vô Ngã, tiếng đại từ bi, tiếng Ba La Mật, tiếng Thập Lực, Vô Úy, Bất Cộng Pháp, tiếng các thông huệ, tiếng vô sở tác, tiếng chẳng khởi diệt, tiếng Vô Sanh Nhẫn, cho đến tiếng cam lộ quán đảnh, tiếng các diệu pháp, xứng hợp lòng mong muốn, không gì chẳng nghe, phát tâm thanh tịnh, thành thục các căn, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề”. Nước ấy vốn vô tình mà khéo có thể nói các diệu pháp.
Diễn: “Hoặc nghe tiếng Phật, Pháp, Tăng”: Tiếng Tam Bảo. “Tiếng Tịch Tĩnh Không Vô Ngã”: Tiếng Nhị Thừa. “Tiếng Đại từ bi Ba La Mật”: Tiếng Bồ Tát. “Tiếng Thập Lực, vô úy, bất cộng”: Tiếng Phật. Từ câu “thông huệ” trở đi, nói cặn kẽ về tiếng Bồ Tát. “Thông huệ”: Huệ theo đường lối thông thường. [Thông huệ thanh] là tiếng của Tam Hiền. “Vô sở tác, chẳng khởi diệt” là tiếng từ Sơ Địa cho đến Thất Địa; do các địa ấy đã đoạn vô minh, chứng Pháp Tánh. Pháp Tánh vốn không có gì để làm, dấy lên, hay diệt mất. “Tiếng Vô Sanh Nhẫn” là tiếng của Bát Địa. Do Bát Địa Bồ Tát đoạn Câu Sanh Ngã Chấp (ngã chấp bẩm sanh), đích thân chứng Vô Sanh. “Cam lộ quán đảnh” là tiếng Đẳng Giác. Khi Đẳng Giác sắp thành Phật, mười phương chư Phật dùng nước trí huệ rưới lên đảnh người ấy, [người ấy] liền dự vào địa vị Phật, giống như Chuyển Luân Vương khi sắp nối ngôi vua, dùng nước rưới đảnh vậy.