/ 2
26

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA HỘI BỔN

阿彌陀經疏鈔演義會本

Phần I


Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao

Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa

(Minh Cổ Hàng Vân Thê Tự sa-môn Châu Hoằng thuật)

(明古杭雲棲寺沙門袾宏述)

(Minh Vân Thê Tự Cổ Đức pháp sư diễn nghĩa)

(明雲棲寺古德法師演義)

Môn nhân Từ Phàm, Trí Nguyện định bổn

門人慈帆智願定本

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo duyệt: Minh Tiến - Huệ Trang - Đức Phong


Dẫn nhập


Đã là Tịnh nghiệp hành nhân, có lẽ không ai không từng đọc tụng và nghe giảng kinh Di Đà, và ai cũng biết hai tác phẩm chú giải trọng yếu nhất là A Di Đà Kinh Sớ Sao và A Di Đà Kinh Yếu Giải. Có lẽ vì nội dung quá rộng, văn từ quá nhiều, hầu như bộ Sớ Sao rất ít khi được giảng trọn vẹn tại Việt Nam. Cho đến khi có cơ duyên được đọc bài giảng của lão pháp sư Tịnh Không, chúng tôi mới biết bộ Sớ Sao còn có một tác phẩm chú giải nữa là Sớ Sao Diễn Nghĩa do môn nhân và thị giả của tổ Liên Trì là pháp sư Cổ Đức biên soạn. Trước đó, tác phẩm này hầu như ẩn kín trong Vạn Tục Tạng, rất ít được lưu thông. Chính nhờ công sức hoằng truyền của lão hòa thượng, bản Diễn Nghĩa này đã được ấn hành lưu thông rộng rãi.

Thoạt đầu, bản Diễn Nghĩa được in riêng thành một tập. Vào thời cổ, có lẽ do phương tiện ấn loát hạn chế, khi chú giải, các vị tổ sư đại đức thường ít dẫn toàn bộ nguyên văn mà chỉ chép vài chữ đầu, và vài chữ cuối của đoạn kinh văn được chú giải. Do đó, khi nghiên cứu, học tập một bản chú giải, người học sẽ tốn rất nhiều công sức đối chiếu với nguyên tác kinh văn để biết lời chú giải ấy dành cho một đoạn kinh văn nào. Nhất là đối với bộ Diễn Nghĩa này, vốn là chú giải của chú giải, cho nên người học khi học phải đối chiếu từng đoạn của chánh kinh và Sớ Sao với phần Diễn Nghĩa, sẽ càng phải tốn công sức gấp bội. Vì thế, hòa thượng Tịnh Không đã từ bi, bỏ công sức đối chiếu, đặt tương ứng từng phần Diễn Nghĩa với lời Sao và lời Sớ để học nhân có thể đọc một mạch, không cần phải tốn thời gian đối chiếu, dò tìm. Do cổ văn thường không chấm câu, hòa thượng lại từ bi chấm câu, khiến cho văn nghĩa rõ ràng, rất tiện lợi cho người học duyệt đọc. Ngài đặt tên bản tổng hợp này là Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản nhằm phân biệt với bản Diễn Nghĩa gốc. Sau khi bài giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao của hòa thượng vào năm 1984 được chuyển ngữ, chúng tôi đã nhận được thư của một số liên hữu yêu cầu gom riêng những phần chánh văn của bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa để tiện học tập và tra cứu, vì nếu phải tìm từng đoạn trong chín quyển bài giảng sẽ quá tốn thời gian. Khi xem lại nguyên tác, chúng tôi cũng nhận thấy trong khi giảng, Hòa Thượng đã lược đi khá nhiều đoạn Diễn Nghĩa cũng như một số đoạn Sao. Vì thế, chúng tôi đã dịch bổ sung những phần không được nhắc tới trong bài giảng, hiệu chỉnh một số chỗ chưa rõ ràng trong lời dịch để tạo thành quyển sách này.

Nếu việc làm thô vụng, liều lĩnh này đem lại phần nào lợi lạc cho các liên hữu thì xin hồi hướng công đức này đến pháp giới chúng sanh đều được tín tâm kiên cố, đạo nghiệp tinh chuyên, cùng được siêu thăng Cực Lạc. Cũng xin hồi hướng bệnh dịch tiêu trừ, thế giới hòa bình, nhân dân an lạc, tinh tấn tu hành. Nguyện cho cha mẹ quá khứ hiện tiền, sư trưởng, thiện ác tri thức, cừu gia oán đối, lũy thế oán thân trái chủ đều thân tâm an lạc, nghiệp chướng tiêu trừ, cùng nhau hội ngộ tại Liên Bang.

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa đê đầu kính bạch.


Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn

quyển đệ nhất

佛說阿彌陀經疏鈔演義會本

卷第一


(Diễn) Đề nghĩa.

Khai quyển: “Phật thuyết” đẳng bát tự thị pháp đề. “Hậu học” đẳng thập nhị tự thị nhân đề. Pháp đề hạ, tự tế thích. Kim nhập văn chi tiên, lý ưng lược trần tổng nhất. Đề trung ước hữu tứ đối. Nhất, thông biệt nhất đối. Thông tắc “kinh” chi nhất tự, biệt tắc “Phật thuyết” đẳng ngũ tự. Nhị, Năng Sở nhất đối. “Năng” thị năng thuyên, tức Kinh chi nhất tự. Sở tức sở thuyên, tức thượng ngũ tự. Tam, giáo lý nhất đối. Phật thuyết kinh thị giáo, A Di Đà tức thị Lý. Tứ, nhân pháp nhất đối. Phật thuyết tức thị nhân, A Di Đà tức thị pháp. Thủ, Phật tự, tức Thích Ca Mâu Ni Phật, tùng Đâu Suất giáng sanh vương cung, vi Tất Đạt thái tử. Xuất gia khổ hạnh lục niên, thành Đẳng Chánh Giác giả. Nhược thích kỳ nghĩa, tắc Phật tự thị Phạn ngữ. Thử phiên Giác Giả, vị giác liễu Tánh Tướng chi giả, cụ hữu tam nghĩa: Nhất, tự giác, giác tri tự tâm bổn vô sanh diệt. Nhị, giác tha, giác nhất thiết pháp vô bất thị Như. Tam, giác mãn, nhị giác lý viên xưng chi vi Mãn. Nhược chuẩn Khởi Tín, diệc chương tam nghĩa: Nhất, Thỉ Giác, tức Năng Chứng Trí. Nhị, Bổn Giác, tức Sở Chứng Lý. Tam, Cứu Cánh Giác, tức Trí dữ Lý minh, Thỉ Bổn bất nhị. Kim kinh sở vân Phật giả, nãi thị tam giác câu viên, Thích Ca Thế Tôn dã. Hựu, Phật Địa Luận, thuyết Phật hữu kỳ thập nghĩa, Thiên Thai lục tức, Hoa Nghiêm thập thân, tường cụ hậu văn. Thuyết giả, dĩ tuyên diễn đắc danh, sướng duyệt vi nghĩa. Tứ vô ngại biện vi Thể. “Sướng” tắc sướng xuất thế chi bổn hoài. “Duyệt” tắc duyệt chúng sanh chi hoạch ích. Kim dĩ Như Lai cửu tu cửu chứng Niệm Phật tam-muội, uẩn chi tại hoài, thích đắc cơ nghi, tùy dĩ Tứ Biện tuyên diễn, sướng duyệt bổn hoài, linh tùy cơ hoạch ích, cố vân Thuyết dã.

/ 2