/ 1
14

KINH PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ YẾU GIẢI

佛說阿彌陀經要解

Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch Kinh

姚秦三藏法師鳩摩羅什譯

Sa Môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí Húc chú giải vào đời Thanh

清西有沙門蕅益智旭解

Dịch giả: Như Hòa

Chú thích: Phần Việt dịch được trích từ “Kinh A Di Đà Yếu Giải Giảng Ký” của Pháp Sư Tịnh Không, Như Hòa chuyển ngữ.


LỜI TỰA

GIẢI THÍCH HUYỀN NGHĨA

  Thích Danh

  Biện Thể

  Minh Tông

  Minh Lực Dụng

  Minh Giáo Tướng

GIẢI THÍCH CHÁNH KINH

PHẦN TỰ

  I. Thông tự

  II. Biệt tự

PHẦN CHÁNH TÔNG

  I. Giảng rộng về y báo và chánh báo để khơi gợi lòng tin

  II. Riêng khuyên chúng sanh hãy nên phát nguyện cầu được vãng sanh

  III. Chỉ thẳng pháp trì danh [nhằm khuyên hành giả] lập hạnh

[PHẦN LƯU THÔNG]

  I. Phổ Khuyến

    1. Khuyến tín lưu thông

    2. Khuyến Nguyện Lưu Thông

    3. Khuyến hạnh lưu thông

  II. Kết Khuyến

LỜI BẠT


Lời Tựa


原夫諸佛憫念群迷. 隨機施化. 雖歸元無二. 而方便多門. 然於一切方便之中. 求其至直捷. 至圓頓者. 則莫若念佛. 求生淨土. 又. 於一切念佛法門之. 求其至簡易. 至穩當者. 則莫若信願專 持名號. 是故淨土三經. 並行於世. 而古人獨以阿彌陀經. 列為日課. 豈非有見於持名一法. 普被三根. 攝事理以無遺. 統宗教而無外. 尤為不可思議也哉. 古來註疏. 代不乏人. 世遠就湮. 所存無幾. 雲 棲和尚. 著為疏鈔. 廣大精微. 幽谿師伯. 述圓中鈔. 高深洪博. 蓋 如日月中天. 有目皆睹. 特以文富義繁. 邊涯莫測. 或致初機淺識. 信願難階. 故復弗揣庸愚. 再述要解. 不敢與二翁競異. 亦不必與二 翁強同也. 譬如側看成峰. 橫看成嶺. 縱皆不盡廬山真境. 要不失為 各各親見廬山而已.

Nguyên phù chư Phật mẫn niệm quần mê, tùy cơ thi hóa. Tuy quy nguyên vô nhị, nhi phương tiện đa môn. Nhiên, ư nhất thiết phương tiện chi trung, cầu kỳ chí trực tiệp, chí viên đốn giả, tắc mạc nhược niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ.

Hựu, ư nhất thiết Niệm Phật pháp môn chi trung, cầu kỳ chí giản dị, chí ổn đáng giả, tắc mạc nhược tín nguyện chuyên trì danh hiệu. Thị cố, Tịnh Độ tam kinh tịnh hành ư thế, nhi cổ nhân độc dĩ A Di Đà Kinh liệt vi nhật khóa. Khởi phi hữu kiến ư trì danh nhất pháp, phổ bị tam căn, nhiếp Sự, Lý dĩ vô di, thống Tông, Giáo nhi vô ngoại, vưu vi bất khả tư nghị dã tai!

Cổ lai chú sớ, đại bất phạp nhân. Thế viễn, tựu yên, sở tồn vô kỷ! Vân Thê hòa thượng trước vi Sớ Sao, quảng đại tinh vi. U Khê sư bá thuật Viên Trung Sao, cao thâm hồng bác. Cái như nhật nguyệt trung thiên, hữu mục giai đổ. Đặc dĩ, văn phú, nghĩa phồn, biên nhai mạc trắc, hoặc trí sơ cơ thiển thức, tín nguyện nan giai.

Cố phục phất sủy dung ngu, tái thuật Yếu Giải. Bất cảm dữ nhị ông cạnh dị, diệc bất tất dữ nhị ông cưỡng đồng dã. Thí như trắc khán thành phong, hoành khán thành lãnh. Túng giai bất tận Lô Sơn chân cảnh, yếu bất thất vi các các thân kiến Lô Sơn nhi dĩ. Tương thích kinh văn, ngũ trùng huyền nghĩa.

Nguyên vì chư Phật nghĩ thương xót quần mê, tùy theo từng căn cơ mà lập cách hóa độ. Trở về nguồn thì chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa. Trong hết thảy các phương tiện, cầu lấy một phương tiện thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, thì không gì bằng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Lại nữa, trong hết thảy các pháp môn Niệm Phật, cầu lấy một pháp đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa nhất, thích đáng nhất, thì không gì bằng “tín, nguyện, chuyên trì danh hiệu”. Vì thế, ba kinh Tịnh Độ cùng được lưu hành trong cõi đời, nhưng cổ nhân lại xếp riêng kinh A Di Đà vào khóa tụng thường ngày, há chẳng phải là vì thấy pháp Trì Danh thích hợp trọn khắp ba căn, thâu nhiếp Sự lẫn Lý chẳng sót, bao trùm Tông lẫn Giáo chẳng thừa, thật là chẳng thể nghĩ bàn đó ư?

Từ xưa đến nay, không đời nào thiếu người chú sớ kinh này, nhưng thời đại đã lâu, khiến những bản văn ấy bị mất mát, chẳng còn lại được mấy. Hòa thượng Vân Thê trước tác bộ Sớ Sao, rộng lớn, tinh vi. Sư bá U Khê soạn cuốn Viên Trung Sao, cao sâu, mênh mông, bát ngát. Giống hệt như mặt trời, mặt trăng giữa trời, kẻ nào có mắt đều trông thấy, nhưng vì văn nhiều, nghĩa lắm, khó lường được bến bờ; chắc sẽ đến nỗi khiến cho kẻ sơ cơ, kém hiểu biết, khó thành tựu tín nguyện. Vì thế, tôi chẳng nề hà chính mình tầm thường, ngu muội, lại viết cuốn Yếu Giải. Chẳng dám ganh đua cho khác với hai ông, mà cũng không nhất thiết phải gượng ép cho giống với hai vị. Ví như nhìn dọc thành ngọn, nhìn ngang thành rặng, dẫu đều chẳng thể thấy trọn hết cảnh Lô Sơn, chỉ cốt sao ai nấy chẳng đánh mất cảnh Lô Sơn theo như chính mình đã thấy mà thôi! Kinh văn được giải thích theo năm tầng huyền nghĩa.

/ 1