/ 12
4

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM PHỔ MÔN - BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Tập 12

Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài Loan

Bài giảng thứ bảy - Tháng 12 năm 1983

Số lưu trữ: 08-004-0012

Hòa Thượng Tịnh Không chủ giảng

(Nguyễn Minh Tiến dịch)


Mời quý vị mở [sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành, quyển hạ], trang 841, dòng thứ 3.

Trong sách ghi “hai”, tức là đoạn thứ hai trong phần kệ tụng, tiếp theo có 20 dòng, tức là 20 khổ kệ, “tụng chi tiết hai nội dung giải đáp”. Phần này chia làm hai đoạn. Đoạn trước có 14 khổ kệ, nội dung là “giải đáp về nhân duyên có danh hiệu Quán Thế Âm”. Đoạn tiếp theo có 6 khổ kệ, nội dung là “giải đáp về sự thị hiện khắp cùng”.

Khổ kệ đầu tiên ở phần trước là “giải đáp tổng quát”.

“Ta nay sẽ vì ông lược nói,

Dù nghe danh hay thấy hiện thân,

Nếu trong tâm vẫn thường nhớ niệm,

Liền bình an khổ nạn dứt trừ.”

Trong phần chú giải, Đại sư nói: “Chỉ nêu phần cốt yếu nên gọi là lược thuyết. Được “nghe danh” nên xưng niệm. Đây là thuộc về nghiệp của miệng. Xưng niệm chính là xưng dương thánh hiệu, chúng ta thường gọi là niệm Phật, hay trì danh, nói xưng niệm cũng chính là niệm bằng miệng. “Thấy hiện thân nên lễ bái”, đây là thuộc về nghiệp của thân, sớm tối lễ bái. “Trong tâm niệm”, đây là thuộc về ý nghiệp. Phần này là nói sự thọ trì cung kính bằng cả ba nghiệp.

Bản chữ Hán nói “chư hữu” tức là “nhị thập ngũ hữu” (25 cảnh giới hiện hữu), ở đây không thể giải thích chi tiết. Quý vị có thể tìm xem trong từ điển Phật học và sách Giáo thừa pháp số. Trong Phật pháp, nói về thế gian pháp, ba cõi sáu đường đều được bao gồm trọn vẹn trong 25 cảnh giới hiện hữu. Vì vậy nói 25 cảnh giới hiện hữu chính là nói về mọi khổ nạn trong ba cõi sáu đường. Thông thường cũng dùng ba khổ, tám khổ để chỉ chung.

“Nghe danh xưng niệm, thấy hiện thân lễ bái đều không uổng phí, vì diệt được hết các khổ trong ba cõi”. Nói ba cõi, vì 25 cảnh giới hiện hữu nói gộp lại thành ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, nói chi tiết ra thì thành 25 cảnh giới hiện hữu.

Khổ kệ này là một khổ kệ rất quan trọng, chúng ta cần ghi nhớ. Đây là lời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với chúng ta. Lời của Phật, như trong Kinh Kim Cang đã dạy là “lời chân chánh, lời đúng thật, lời không sai trái, lời không dối gạt”. Lời của Phật là đáng tin cậy nhất. Nếu chúng ta không tin, đó là tự mình ngu si, tự mình có chướng ngại.

Phần tiếp theo mười ba khổ kệ là phần tụng chi tiết, tức là “giải đáp chi tiết”, trùng tụng lại ý nghĩa trong phần kinh văn trường hàng. Mỗi khổ kệ đều có một tiểu đề mục, đối chiếu với phần kinh văn trường hàng phía trước sẽ rõ. Mời quý vị lật sang trang 842.

“Hoặc có người khởi tâm hãm hại,

Đem bỏ vào hầm lửa đốt thiêu.

Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,

Hầm lửa kia liền hóa ao lành.”

“Phần tụng tiếp theo đây, so với kinh văn trường hàng có khác biệt về sự tướng, tăng thêm một số loại. Như nói về mười bốn pháp vô úy (của Bồ Tát), đặc biệt chỉ nêu đại lược, thực ra có đầy đủ tất cả công đức, có thể cứu tất cả nạn khổ nguy cấp, cho nên thêm phần tụng này.”

Nói phần tụng có thêm, tức là trong kinh văn bản này không có. Kinh văn bản này tuy không có, nhưng trong kinh Lăng nghiêm thì có. Trong kinh Lăng Nghiêm có nêu mười bốn pháp vô úy, ba mươi hai ứng thân. Mười bốn pháp vô úy và bốn pháp không thể nghĩ bàn, đều có đủ trong kinh Lăng nghiêm. Trong kinh này, chúng ta chỉ thấy nói đến bảy nạn, ba độc, hai mong cầu, chính là mười hai nguyện lớn của Bồ Tát. Cho nên hợp cả hai bản kinh để xem thì ý nghĩa rất trọn vẹn.

Khổ kệ thứ nhất này nói việc niệm Bồ Tát Quán Thế Âm có thể tránh khỏi được nạn lửa thiêu.

“Hoặc trôi dạt giữa vùng biển cả,

Gặp quỷ thần, rồng, cá khốn nguy;

Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,

Sóng dữ kia chẳng thể hại mình.”

Ý nghĩa này rất rõ ràng. Khổ kệ nói về việc chúng ta niệm thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng quý vị phải nhớ kỹ trong phần kinh văn trường hàng phía trước đã nói, phải “nhất tâm xưng niệm”. Lúc niệm cũng có sự nhất tâm, lý nhất tâm và công phu thành phiến, đều phải đạt đến các tiêu chuẩn này mới có thể trừ tai họa, khỏi hiểm nạn.

/ 12