/ 51
87

KINH ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT BỔN NGUYỆN (Tập 49)

Xin mở bản Kinh ra, phần Khoa Chú, quyển Hạ trang tám mươi hai, đếm ngược đến hàng thứ hai:

“DỤC TU VÔ THƯỢNG BỒ ÐỀ GIẢ

NÃI CHÍ XUẤT LY TAM GIỚI KHỔ

THỊ NHÂN KÝ PHÁT ĐẠI BI TÂM

TIÊN ĐƯƠNG CHIÊM LỄ ĐẠI SĨ TƯỢNG

NHẤT THIẾT CHƯ NGUYỆN TỐC THÀNH TỰU

VĨNH VÔ NGHIỆP CHƯỚNG NĂNG GIÀ CHỈ”.

 

(Bồ-đề vô thượng muốn tu hành

Mong ra ba cõi khỏi tử sinh

Người này đã phát lòng bi lớn Trước nên chiêm lễ Đại Sĩ hình Bao nhiêu mong ước sớm viên thành

Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng).

Đoạn này có tựa là “Tụng thành tựu độ sanh”. “Dục tu Vô Thượng Bồ Ðề giả” (Bồ-đề vô thượng muốn tu hành). Đây là Bồ Tát phát tâm. “Vô thượng Bồ-đề” chính là vô thượng chánh đẳng chánh giác. “Xuất ly Tam Giới khổ” (Thoát khỏi nỗi khổ trong Tam Giới). Người Tiểu Thừa cũng làm được. Trong Phật pháp đều gọi họ là người thật sự giác ngộ. Nỗi khổ trong tam giới thật sự mà nói là khổ không thể tả. Người thật sự giác ngộ nhất định sẽ muốn vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi trong tam giới. Tam giới chính là lục đạo. Tam giới là chỉ Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Từ trong Kinh Phật nói về Tứ Thiền, chúng ta có thể hiểu được. Đỉnh trời của một đơn vị thế giới là cõi sơ thiền, đỉnh trời của tiểu thiên thế giới là cõi nhị thiền, đỉnh trời của trung thiên thế giới là cõi tam thiền, đỉnh trời của đại thiên thế giới là cõi tứ thiền. Cho nên bạn mới hiểu được nói tam giới hay nói lục đạo ý nghĩa đều giống nhau. Khu vực giáo hóa của một vị Phật là một đại thiên thế giới. Quý vị phải hiểu chỉ có một cõi trời Tứ Thiền, và có đến một nghìn cõi trời Tam Thiền. Những gì trong Kinh giáo nói chúng ta phải biết đại thể.

“Dục tu vô thượng Bồ-đề” (Bồ-đề vô thượng muốn tu hành). Không những là thoát khỏi lục đạo, mà còn thoát khỏi thập pháp giới. Mong cầu Phật quả cứu cánh viên mãn, đây là người có chí nguyện tầm nhìn rộng lớn. Thoát khỏi tam giới đây là người có tầm nhìn tương đối nhỏ, nhưng cũng là vô cùng vô cùng hiếm có rồi. Người này đã phát tâm đại bi, phải làm thế nào để thỏa mãn nguyện của họ? “Tiên dương chiêm lễ Đại Sĩ tượng” (Trước nên chiêm lễ Đại Sĩ hình). Đây tức là trước tiên phải thành tựu chính mình. Ý nghĩa của “Chiêm lễ” phần trước đã nói rất nhiều rồi, nên chỗ này không cần lặp lại nữa. Quan trọng nhất là phải y giáo tu hành. Trong "Kinh Hoa Nghiêm" nói hộ pháp, hộ trì chánh pháp. Dựa theo tiêu chuẩn trong "Kinh Hoa Nghiêm" để nói thì hiện nay hiếm có người hộ pháp. Pháp là gì? Pháp là giáo, lý, hành, quả. Phải hộ bốn loại pháp này cho viên mãn, thế mới gọi là hộ pháp chân chánh, mới là tiêu chuẩn mà đức Phật nói. Chúng ta nói hộ trì đạo tràng, hộ trì pháp sư nào đó là không được. Cái đó nếu so với tiêu chuẩn của đức Phật, thì không phải hộ pháp. Cho nên lời đức Phật nói trong Kinh, nhất định phải có sự thấu hiểu tương đối, sau đó mới biết làm như thế nào mới là đúng như pháp. “Giáo” mà đức Phật dạy chúng ta có bốn loại: giáo, lý, hành, quả. Chúng ta phải tu như thế nào? Phải Tín, giải, hành, chứng. Chúng ta đối với giáo phải tin. Phải tin lời chỉ dạy của đức Phật. Lý phải giải (hiểu). Hành phải tu. Quả phải chứng. Cho nên bản thân chúng ta phải làm được tín, giải, hành, chứng.

Hai câu sau cùng: “Nhất thiết chư nguyện tốc thành tựu, vĩnh vô nghiệp chướng năng già chỉ” (Bao nhiêu mong ước sớm viên thành, Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng). Hai câu này là nói sau khi mình thành tựu, phải giáo hóa tất cả chúng sanh. Chư Phật Như Lai thị hiện trong pháp giới chúng sanh, cũng thường hay thị hiện có nghiệp chướng. Quý vị phải biết nghiệp chướng đó là thị hiện, đều là phương pháp giáo hóa, là nghi thức dạy học của các Ngài, chứ không phải thật. Khiến cho kẻ phàm phu chúng ta cảnh giác sâu sắc sự đáng sợ của nhân quả. Bậc Thánh nhân thế gian như Khổng Lão Phu Tử, chúng ta đọc ở trong “Truyện Ký” thấy, Khổng Tử bị đói ở nước Trần. Ngài cũng bị đói. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã từng bị quả báo ăn lúa mạch của ngựa ba tháng. Gặp phải lúc mất mùa đói khát, đi bát không có người cúng dường. Đây là hiển thị điều gì? Hiển thị nhân quả. Cho dù thành Phật, thành Thánh cũng không có cách gì chuyển đổi nhân quả được. Trước đây Đại sư Bá Trượng nói rất hay: “Bậc đại tu hành, không mờ nhân quả”. Không phải không có nhân quả. Không mờ là sao? Đối với nhân quả biết rất rõ ràng, rất minh bạch. Cho nên lúc thọ báo họ rất sẵn lòng đón nhận, biết cái mà ta nhận hiện nay do nhân ta tạo trong quá khứ là gì, nên hiện nay phải gặp quả báo này, biết rất rõ ràng, minh bạch. Không giống như người thế gian, người thế gian khi gặp phải quả báo, tất cả khổ nạn họ không biết, không hiểu là do nguyên nhân gì. Cho rằng là do người khác gây ra cho mình, họ oán trời trách người, nên lúc thọ báo vẫn tạo tội nghiệp, cứ như vậy nhân quả tuần hoàn, nên họ mỗi lúc một tệ hơn, bị đọa lạc xuống. Người sáng suốt, khi họ thọ quả báo họ không bị đọa lạc, họ dần dần nâng cao cảnh giới lên, vậy là khác nhau rồi. Họ thật sự hiểu được: “Giọt nước hạt cơm đều do tiền định”. Tức là gặp phải người khác phá hoại chúng ta, tổn hại chúng ta, là do trong đời quá khứ chúng ta đã làm tổn hại họ, ngày nay họ đến làm tổn hại ta, đây là báo ứng, ta biết rõ, ta đón nhận, tiếp nhận một cách rất vui vẻ, không có một chút oán hận nào, vậy là nút thắt này được tháo gỡ rồi, lần sau gặp mặt lại là hết chuyện rồi, đây mới là cách giải quyết vấn đề. Tuyệt đối không được dùng tâm báo thù để giải quyết vấn đề. Quý vị phải biết như thế là không thể giải quyết được. Trả thù, bạn giết họ, bạn diệt cả tộc của họ, thì đời sau họ cũng diệt cả tộc của bạn giống như vậy, nhân quả tuần hoàn, càng diễn biến càng tàn khốc. Hay nói cách khác càng đọa lạc càng sâu, vậy thì đâu phải là cách giải quyết vấn đề? Cách giải quyết vấn đề đích thực là thoát gỡ nút thắt, tháo gỡ nút thắt oan khuất này ra. Tất cả mọi quả báo bất thiện đều phải đón nhận, bạn mới có thể hóa giải được, vậy thì trên đường Bồ-đề bất kể là mình tu hành hay hoằng pháp lợi sinh đều không có chướng ngại. Chư Phật Bồ Tát thị hiện đủ dạng hình tướng này đều là khiến cho chúng ta giác ngộ, để cho chúng ta hiểu rõ, cũng là chỉ dạy chúng ta cần phải làm như thế nào. Nói thực ra đây chính là sống. Đức Phật dạy chúng ta sống, dạy cho chúng ta cách làm người xử thế.

/ 51