/ 5
92

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Tập 1

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 05 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hiệp hội giáo dục Phật-đà Hồng Kông

Việt dịch: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu

 

Chư vị pháp sư, chư vị đại đức, chư vị đồng học, xin mời ngồi! Hôm nay nhằm tiết Thanh Minh âm lịch, chúng tôi chọn ngày hôm nay để bắt đầu giảng Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa. Đối với người thông thường, danh xưng này dường như rất xa lạ, nhưng các vị đồng tu lâu năm trong nhà Phật đều biết Tịnh Độ Đại Kinh chính là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ hiện nay có chín phiên bản khác nhau, bản được chúng tôi chọn lựa chính là bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, căn cứ theo thứ tự triều đại trước sau thì bản thứ chín này là bản cuối cùng. “Giải” là chú giải, do đệ tử của Hạ lão là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải. Duyên khởi này cũng rất chẳng thể nghĩ bàn, trong giáo pháp Đại thừa, cũng như trong Phật môn, mọi người đều cảm thấy kinh Vô Lượng Thọ rất hiếm có. Vì sao vậy? Vì thuở Thế Tôn còn tại thế đã giảng kinh dạy học suốt 49 năm, trong 49 năm ngài đã giảng rất nhiều kinh luận, các kinh luận khác thì ngài chỉ giảng một lần, không hề giảng trùng lặp, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được giảng lại mấy lượt. Các kinh phiên dịch tại Trung Quốc, từ phần mục lục các kinh được dịch, chúng ta thấy kinh này có mười hai bản dịch, được phiên dịch nhiều lần nhất, từ triều Hán cho đến triều Tống, trong vòng 800 năm, được phiên dịch mười hai lần. Đương nhiên, cùng một bản gốc mà có nhiều bản dịch thì tất nhiên văn tự trong các bản dịch ấy sẽ khác nhau, nhưng nội dung chắc chắn giống nhiều khác ít. Như kinh Kim Cang có sáu bản dịch, từ Đại tạng kinh thì chúng ta có thể thấy sáu bản dịch ấy có cùng một bản gốc, cũng có nghĩa là Thế Tôn chỉ giảng [kinh Kim Cang] một lần. Kinh Vô Lượng Thọ rất kỳ lạ, chỗ khác biệt trong các bản dịch rất lớn, chỗ rõ ràng nhất, mà cũng là phần trọng yếu nhất trong kinh này, chính là bổn nguyện của A-di-đà Phật. Trong mười hai bản dịch hiện tại chỉ còn lại năm bản, đã thất truyền bảy bản, hiện nay trong Đại tạng kinh có mục lục, nhưng không có bản kinh, đây là sự việc rất đáng tiếc!

Trong năm bản dịch gốc được lưu truyền thì hai bản ghi 48 nguyện, 24 nguyện cũng được ghi trong hai bản khác, còn bản dịch đời Tống chép 36 nguyện, điều này khác biệt quá lớn. Nếu cùng một bản dịch gốc thì chắc chắn không thể có sự khác biệt này, chẳng thể có chuyện này! Do vậy, từ chỗ có ba loại bổn nguyện khác biệt này, nên cổ đại đức đã phán đoán: Bảy bản dịch đã thất truyền kia thì không biết, không rõ nội dung, nhưng từ năm bản dịch này thì khẳng định Thế Tôn tối thiểu đã giảng [kinh Vô Lượng Thọ] ba lần, ba lần nói bổn nguyện của A-di-đà Phật, Thế Tôn nói các điều nguyện không giống nhau nên mới có sự khác biệt này. Sự suy luận này rất hợp logic, người thông thường chúng ta cũng đều có thể chấp nhận. Nhiều lần tuyên giảng đâu phải dễ, nếu không phải hết sức trọng yếu thì Thế Tôn chẳng thể tuyên giảng nhiều lần, trong Đại tạng kinh gần như chẳng tìm được dấu vết [những bộ kinh khác] được tuyên giảng nhiều lần. Sở dĩ năm xưa đức Phật tuyên giảng bộ kinh này nhiều lần, vì đây là một bộ kinh vô cùng trọng yếu. Đặc biệt chúng ta thấy đại sư Thiện Đạo đã nói hai câu, ngài Thiện Đạo là người thời Đường, theo truyền thuyết ngài là A-di-đà Phật tái lai, lời ngài Thiện Đạo nói chính là lời A-di-đà Phật tự nói. Ngài nói: “Như Lai sở dĩ xuất hiện ở thế gian, chỉ vì nói biển bổn nguyện của Di-đà”, nghĩa này chính là nói mười phương chư Phật thị hiện trong thế gian [chỉ vì nguyên nhân này]. Qua phẩm Hoa Tạng Thế Giới và phẩm Thế Giới Thành Tựu trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy được vũ trụ quan của nhà Phật, triết học hiện đại gọi là vũ trụ quan, thật quá lớn! Các nhà thiên văn học hiện thời chưa đạt tới cảnh giới này; nói theo Phật pháp, sự quan sát và lý giải của các nhà thiên văn học vẫn chưa thể ra khỏi thế giới Ta-bà.

Chúng tôi học kinh giáo nhiều năm như vậy, bao gồm các vị đại đức tiền bối và những vị đời trước nữa, đều cho rằng một đơn vị thế giới được nói trong kinh Phật chính là địa cầu của chúng ta, mặt trời xoay quanh núi Tu-di, rất nhiều người hiểu lầm, cho rằng núi Himalaya là núi Tu-di. Sau này khoa học chứng minh trái đất hình tròn nên gọi là địa cầu, chẳng khác gì các ngôi sao trên trời, cũng không thể coi là quá lớn được, địa cầu xoay quanh mặt trời, chứ không phải mặt trời xoay quanh địa cầu. Họ biết có hệ Mặt Trời, mặt trời xoay quanh hệ Ngân Hà, nhưng chúng ta không có cách nào chuyển đổi quan niệm này. Núi Tu-di ở đâu? Chắc chắn núi Tu-di không ở trên địa cầu. Phật pháp hình dung núi Tu-di bằng danh xưng Diệu Cao, chúng ta có thể hiểu chữ cao, nhưng còn chữ diệu rất khó hiểu. Chúng tôi vốn cho rằng một cõi Phật, tức là phạm vi giáo hóa của một vị Phật dường như là hệ Ngân Hà mà nhà khoa học hiện nay nói. Từ năm 1986, tôi đã kết duyên, quen biết lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, khi đó hai người chúng tôi vô cùng hoan hỷ, vì hoằng dương bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư chỉ có hai người chúng tôi, ngài giảng bộ kinh này trong nước, tôi giảng bộ kinh này tại hải ngoại. Chúng tôi gặp mặt, Hoàng lão nêu lên vấn đề này với tôi, nói cho tôi biết, một đơn vị thế giới trong kinh Phật chẳng phải là hệ Mặt Trời, mà là hệ Ngân Hà, trung tâm của hệ Ngân Hà là hố đen, núi Tu-di có lẽ là chỉ cho hố đen này. Sự cao lớn của hố đen thì chúng ta có thể hiểu được, nhưng cho đến nay, vẫn chưa ai có thể lý giải tình trạng thật sự của hố đen, chỉ biết nó có sức hút rất lớn, ngay cả ánh sáng cũng không cách nào xuyên qua nó, đều bị nó hút mất. Nó là cái lõi của hệ Ngân Hà, tất cả các hành tinh đều xoay quanh cái lõi này, cổ nhân Trung Quốc gọi nó là cực Hoàng Đạo, hệ Ngân Hà mới là một đơn vị thế giới. Một ngàn đơn vị thế giới gọi là một “tiểu thiên thế giới”, đó chính là một ngàn hệ Ngân Hà, là một tiểu thiên thế giới; lại lấy tiểu thiên thế giới làm đơn vị, một ngàn tiểu thiên thế giới gọi là “trung thiên thế giới”; một ngàn trung thiên thế giới gọi là một “đại thiên thế giới”. Một đại thiên thế giới có bao nhiêu hệ Ngân Hà? Một tỷ hệ Ngân Hà, các nhà thiên văn học hiện nay chưa thể quan sát điều này, đây là khu vực giáo hóa của một đức Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta có vô lượng vô biên thế giới như vậy trong không gian. Nói đến thế giới Hoa Tạng, thì thế giới Hoa Tạng giống như một tòa nhà có 20 tầng, thế giới Ta-bà và thế giới Cực Lạc đều ở tầng thứ 13, lại chẳng biết có bao nhiêu thế giới giống như thế giới Hoa Tạng! Đây là thế giới quan nói trong Phật pháp, thế giới đồ sộ, quả thật chẳng thể nghĩ bàn.

/ 5