/ 51
135

ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT BỔN NGUYỆN KINH

Tập 21

Chủ giảng: Pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Tháng 5 năm 1998

Địa điểm: Tịnh tông Học Hội Singapore

 

Xin mời mở kinh văn, Khoa Chú quyển trung, trang 39, xem kinh văn:

 

Phục thứ Phổ Quảng, nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, năng đối Bồ-tát tượng tiền, tác chư kỹ nhạc, cập ca vịnh tán thán, hương hoa cúng dường, nãi chí khuyến ư nhất nhân, đa nhân. Như thị đẳng bối, hiện tại thế trung. Cập vị lai thế, thường đắc bá thiên quỷ thần nhật dạ vệ hộ, bất lịnh ác sự triếp văn kỳ nhĩ, hà huống thân thọ chư hoạnh.

 

Xem đoạn này của kinh Địa Tạng, chúng ta thấy có rất nhiều hình thức cúng Phật, ở đây là dùng “kỹ nhạc”, “kỹ” chính là ngày nay chúng ta gọi là ca múa, âm nhạc. Trong Phật pháp Đại thừa, chúng ta xem thấy rất nhiều những bức tranh vẽ cảnh Thế Tôn hoằng pháp thời xưa, lúc Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp, chư thiên vừa múa vừa ca hát cúng dường. Những việc này tuyệt đối không có trong Phật pháp Tiểu thừa. Như trong Bát Quan Trai giới, Sa-di giới, Tỳ-kheo giới tuyệt đối không cho phép [đi đến] những chỗ ca múa. Nhưng Bồ-tát Đại thừa thì khác, có thể xem thấy rất rõ ràng, Tiểu thừa là đối với xã hội bảo thủ, là phương tiện khéo léo của Phật lập ra cho những người bảo thủ; Đại thừa Phật pháp là dành cho xã hội cởi mở, đối với một số chúng sanh cởi mở. Như vậy nói rõ, Phật đích thực không có định pháp, không có pháp nhất định, Phật giáo hóa chúng sanh đều là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. [Khi giảng] kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đặc biệt nói rõ những chỗ này, đích thực là ứng cơ.

Đương nhiên đức Phật có trí tuệ, có đức năng, nhìn một chúng sanh có thể thấy nhân duyên vô lượng kiếp về trước, chúng ta không có khả năng này, do đó đức Phật nhiếp thọ chúng sanh là dùng “Tứ nhiếp pháp” rất viên mãn. Pháp sau cùng trong Tứ nhiếp pháp là “lợi hành, đồng sự”, đồng sự thì phải cởi mở, nếu như không cởi mở thì làm sao đồng sự với chúng sanh? Đây là trí tuệ cao độ, thiền định thâm sâu. Ngài có thể thuận theo chúng sanh, từ trong đó dẫn dắt chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ, giúp chúng sanh quay về, cải tà quy chánh, đoạn ác tu thiện, đức Phật có khả năng này. Nếu như tự mình không có trí tuệ, không có công phu định lực mà cũng muốn học theo như vậy thì rất khó chống chọi sự dụ hoặc của ngoại cảnh. Rất nhiều người không đủ định tuệ, bị cảnh giới bên ngoài dụ hoặc nên thoái chuyển, đến nỗi đánh mất đạo tâm, đều là như vậy. Từ thời đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng như vậy, mỗi một thời đại đều có. Người xuất gia đọa lạc, người xuất gia hoàn tục, thật ra hoàn tục vẫn còn tốt hơn so với đọa lạc, họ xả bỏ hình tướng của người xuất gia, hoàn tục làm người tu hành tại gia cũng tốt, cũng có thể thành tựu. Thế nên, trong cửa Phật người xuất gia hoàn tục là một hiện tượng rất bình thường, cũng là một hiện tượng tốt, chúng ta không nên nhìn bằng ánh mắt khác thường, nếu nhìn như vậy thì chúng ta sẽ có tội. Như ngày nay, những quốc gia Tiểu thừa có cho mọi người xuất gia trong thời gian ngắn; ở Thái Lan, ngay cả vua cũng phải xuất gia ba tháng, sau ba tháng thì hoàn tục, đây là tiếp nhận sự giáo dục của Phật giáo, trải qua đời sống Phật giáo, tuyệt đối có lợi ích, có giúp đỡ đối với xã hội.

Đoạn này nói rõ phước báo có được khi dùng ca múa, âm nhạc để cúng dường Bồ-tát. Đoạn trước nói về cúng dường, đoạn sau nói người ấy được phước. Từ đoạn kinh văn này chúng ta cũng có thể hiểu được cách dùng phương thức nghệ thuật để hoằng pháp lợi sanh. Ở trong Đại Tạng Kinh, tôi xem thấy trong bản Gia Hưng Tạng[1]. Gia Hưng Tạng được biên tập thời nhà Minh, mỗi cuốn trong tạng kinh rất dày. Hiện nay là dùng quyển bìa cứng, đại khái là trong đó có hai tập dày như vậy, có nội dung là gì? Toàn là ca từ, khúc nhạc. Những ca từ, khúc nhạc ấy đều có thể diễn xướng. Do đó có thể biết, thời xưa thường dùng cách này để khuyến hóa chúng sanh, bởi vì chúng sanh thích tiếp nhận theo cách thức như vậy. Biên tập thành kịch bản để biểu diễn thì tương đối ít, tại vì sao? Điều kiện ấy phải cần nhiều người, không phải một người, hai người có thể làm nổi. Một, hai người dùng ca hát, dùng cách biểu diễn như vậy rất thường thấy trong nghệ thuật dân gian thời xưa.

Ban biên dịch: Pháp Âm Tuyên Lưu

/ 51